Khi niềm kiêu hãnh trở
thành nỗi xấu hổ
Công Minh
(TBKTSG) – 1. Tin tức về việc chính quyền tỉnh Sóc Trăng sang
Campuchia học tập kinh nghiệm kinh doanh lúa gạo khiến nhiều người ngỡ ngàng.
Gần 30 năm qua, chúng ta vẫn coi lúa gạo là niềm kiêu hãnh của dân
tộc Việt Nam, nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa có thương hiệu gạo quốc gia. Ảnh:
LÊ HOÀNG VŨ
Tôi sinh ra sau đổi mới, chỉ được biết về nó qua
các bài học lịch sử. Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in cảm giác tự hào dân tộc
khi nghe cô giáo lịch sử cấp 2 của mình nói: “Công cuộc đổi mới đã biến Việt
Nam từ một nước thiếu đói nhanh chóng vươn lên vị trí cường quốc xuất khẩu
gạo”. Gần 30 năm qua, chúng ta vẫn coi lúa gạo là niềm kiêu hãnh của dân tộc
Việt Nam.
Nhưng vài năm trở lại đây, báo đài dần xuất hiện nhiều hơn các bài
viết nói về sự tụt hậu của ngành lúa gạo Việt Nam, rằng chất lượng gạo của
chúng ta thấp, rằng gần 30 năm rồi mà chúng ta chưa có thương hiệu gạo quốc
gia. Rồi một vài lần mẹ tôi đi siêu thị mua về gạo Nhật, gạo Thái, cũng thấy
khác so với gạo nội mình thường ăn. Hạt gạo của họ trắng hơn, to đều, không có
hạt vỡ, không lẫn trấu sạn, lại thơm hơn và dẻo hơn. Lúc đó tôi chỉ nghĩ: “Thái
với Nhật phát triển hơn Việt Nam nên mới thế”.
Một cú sốc nữa đối với ngành lúa gạo Việt Nam khi chỉ mới tháng
trước, chính quyền Trung Quốc, một thị trường vốn được coi là rất dễ tính, sang
Việt Nam để kiểm tra việc kiểm dịch gạo. Theo một chuyên gia trong ngành,
nguyên nhân là do các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam đấu trộn quá
nhiều. Từ năm 2017 trở đi, chỉ còn 22 doanh nghiệp được quyền bán gạo vào thị
trường này.
2. Cách đây không lâu, tôi có dịp ngồi nói chuyện với một doanh
nhân người Campuchia kinh doanh trong lĩnh vực lúa gạo. Ông ta say sưa kể về
công việc kinh doanh của mình, rằng mỗi năm ông ta xuất được bao nhiêu gạo,
rằng giá rất tốt do gạo của ông ta là gạo hữu cơ, không dùng hóa chất… Nhưng
điều người đàn ông này tự hào nhất là ông đã giúp được rất nhiều nông dân
Campuchia thoát nghèo dựa trên công nghệ trồng lúa gạo hữu cơ mà ông dạy họ.
Tôi hỏi ông ta có kho chứa gạo không, dung tích bao nhiêu, có máy
xát không, công suất thế nào… Ông nói lúc đầu khởi nghiệp thì chỉ đi thuê kho
và máy rất nhỏ, sau có thương hiệu rồi, có nhà đầu tư khác cùng hùn vốn rồi thì
mới mua sắm.
Tôi kể cho ông ấy nghe Nghị định 109 của Việt Nam yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải có kho 5.000
tấn và máy xát 10 tấn/giờ. Ông ấy trợn tròn mắt và nói: Thế thì tôi cũng không
thể khởi sự kinh doanh.
Tôi cũng kể cho ông ấy chuyện Công ty Cỏ May của Việt Nam làm gạo
hữu cơ nhưng không thể tự mình xuất khẩu đành phải lách. Cỏ May đã phải thành
lập một công ty tại Singapore. Cỏ May trong nước sản xuất ra gạo, đưa gạo của
mình cho người có giấy phép xuất khẩu để bán cho công ty của chính Cỏ May ở
Singapore, công ty này sau đó mới bán cho khách hàng (xem thêm bài Hạt gạo vướng nút thắt Nghị định
109/2010 trên kinhtesaigon.vn).
Người đàn ông nghĩ một lúc rồi nói nửa thật nửa đùa: “Vậy tôi mong
Chính phủ Việt Nam duy trì quy định này, để gạo của tôi bớt đối thủ cạnh
tranh”.
Xây dựng thương hiệu tức là khiến người tiêu dùng ghi nhớ trong
đầu rằng gạo có tên A, B, C… này có chất lượng tốt. Muốn vậy, thì đầu tiên
doanh nghiệp phải cung một lượng nhỏ gạo có chất lượng tốt ra thị trường. Nếu
thấy thị trường đón nhận, người tiêu dùng bắt đầu ghi nhớ rằng gạo A, B, C… đó
tốt rồi thì mới tìm kiếm thêm nhà đầu tư, ngân hàng để mở rộng quy mô và cố
gắng duy trì chất lượng. Không ai mới bắt đầu xây dựng thương hiệu mà đã đi vay
hàng chục tỉ đồng để đầu tư, cung một lượng gạo khổng lồ ra thị trường khi chưa
biết thành, bại ra sao.
Đó là cách mà Nghị định 109 đã góp phần giết chết những nhà khởi
nghiệp và giết chết thương hiệu gạo của Việt Nam.
3. Làm việc sâu trong lĩnh vực pháp luật kinh tế, tôi ngày càng
thấm thía một điều rằng, để phát triển một ngành sản xuất nào đó, không cần Nhà
nước phải ưu đãi, hỗ trợ, hay quy hoạch, cấp phép gì hết, chỉ cần Nhà nước bảo
hộ quyền tài sản và quyền hợp đồng của nhà đầu tư trong lĩnh vực đó một cách
toàn vẹn và lâu dài, chắc chắn ngành đó sẽ phát triển.
Đất canh tác là cơ sở đầu tiên để đầu tư vào lúa gạo. Nhưng quyền
tài sản của nhà đầu tư đối với đất trồng lúa bị giới hạn bởi hai chính sách:
(1) hạn điền và (2) thu hồi đất.
Hạn điền làm tăng chi phí canh tác, bởi chẳng ai có thể ứng dụng
máy móc vào một mảnh ruộng bé tí hon. Nhưng tai hại hơn, hạn điền còn khiến
chất lượng gạo không ổn định. Doanh nghiệp mua gạo của hàng trăm ngàn hộ nông
dân khác nhau thì không có cách nào để bảo đảm chất lượng gạo đồng đều.
Doanh nghiệp tập huấn cho bà con, cung cấp giống, phân, thuốc rồi
giám sát để bảo đảm chất lượng gạo đồng đều ư? Chỉ cần khi đến vụ, giá gạo bên
ngoài cao hơn 100 đồng/ki lô gam là nông dân lật kèo, doanh nghiệp có đủ chứng
cứ cũng không thể đi kiện bởi vì hệ thống tư pháp quá mất thời gian và không
hiệu quả. Quyền hợp đồng không được Nhà nước bảo hộ thì không thể bảo đảm cho
những mô hình hợp tác như vậy.
Chính sách thu hồi đất cũng tác hại không kém. Giả sử bạn là người
có tiền, bạn có thể mua cổ phiếu của một doanh nghiệp trồng lúa hoặc một doanh
nghiệp sân golf. Bạn biết rằng Nhà nước chỉ thu hồi đất trồng lúa để làm sân
golf chứ chẳng bao giờ thu hồi đất làm sân golf để trồng lúa. Vậy bạn sẽ có xu
hướng mua cổ phiếu của ai?
Thu hồi đất còn khiến không ai dám đầu tư lâu dài. Muốn trồng gạo
hữu cơ đòi hỏi đất không được sử dụng bất kỳ hóa chất nào trong ít nhất ba năm.
Sẽ không ai dám làm điều này nếu họ không thể chắc chắn rằng họ có quyền sử
dụng mảnh đất đó trên 10 năm. Trên 10 năm tức là phải trải qua ba nhiệm kỳ chủ
tịch tỉnh, người có quyền ký quyết định thu hồi đất, không ai dám chắc ông chủ
tịch tiếp theo không làm điều này.
C. M.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment