On Thursday, October 15, 2015 6:48 PM, Toma Thien <>
wrote:
Kính gởi đến Quý Thân hữu bán nguyệt
san Tự Do Ngôn Luận số 229 (15-10-2015) và bài xã luận.
Xin cảm ơn Quý vị đã đón nhận và sẽ
vui lòng chuyển tiếp.
Ban biên tập
Sửa
luật hay siết luật ???
Xã
luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 229 (15-10-2015)
Nhà cầm quyền Việt cộng đang bị quốc tế áp lực phải sửa lại các luật phản nhân
quyền của họ, các luật mà chỉ có những chế độ độc tài Cộng sản man rợ mới nghĩ
ra, bất chấp sự tụt hậu của đất nước, sự điêu linh của đồng bào, sự hỗn loạn
của xã hội, sự toàn cầu hóa về tự do dân chủ và sự tác hại lên nền văn minh
chung của nhân loại. Áp lực đó xuất phát một đàng từ việc Hà Nội đang ngồi trên
ghế Hội đồng Nhân quyền LHQ và đang bước vào ghế Đối tác xuyên Thái Bình Dương,
đàng khác từ những thông tin của các báo lề trái trong nước và những tường
trình của các cơ quan nhân quyền ngoài nước về các vụ vi phạm quyền con người
liên tục của Việt cộng, cụ thể như đàn áp các tôn giáo, các nhà dân chủ đối
kháng và các tổ chức xã hội dân sự.
Trong khoảng một năm gần đây, Quốc hội bù nhìn đang có chiến dịch xây dựng, sửa
đổi và xin dân góp ý về một số luật gây tranh cãi lâu nay. Mới nghe thì thấy
nhà nước VN quả là thiện chí đầy mình, vì theo quan niệm thông thường, người ta
xây dựng hay sửa đổi luật là để đáp ứng hoàn cảnh biến đổi, canh tân tình trạng
đất nước, cải thiện quan hệ xã hội và phục vụ cuộc sống công dân. Thế nhưng,
chỉ cần điểm qua dự thảo Luật tín ngưỡng tôn giáo, Luật về hội và Luật hình sự
sửa đổi và phản ứng của người dân thì rõ tâm địa của đảng và nhà cầm quyền Việt
cộng.
Trước hết, về Dự thảo Luật tín ngưỡng tôn giáo (LTNTG), Hội đồng Giám
mục VN, trong Nhận định và góp ý đưa ra ngày 04 tháng 5, có viết: “Dự thảo 4
chưa làm rõ mục đích của luật, vì luật được tạo ra nhằm đảm bảo quyền con người,
tạo sự bình đẳng cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đóng góp vào sự phát triển
chung của đất nước, đem lại bình an cho xã hội cùng cộng đồng dân tộc. Điều
kiện tiên quyết đem lại bình an cho cộng đồng dân tộc là việc người dân chu toàn
bổn phận làm người, - tu thân, tề gia, trị quốc, - phải mang tính thiên thời,
địa lợi, nhân hoà. Thiên thời là thuận ý trời. Địa lợi là lợi cho truyền thống
văn hoá đạo đức dân tộc. Nhân hòa là hoà với lòng nhân, lòng đạo của người dân.
Trong bản Dự thảo 4 có những điều luật chỉ nhằm mang lại quyền lợi cho nhà cầm
quyền (như Điều 9, cùng những Điều nói về việc đăng ký…), mà quên đi quyền lợi
của người dân, chưa làm rõ tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo. Điều thiếu
sót quan trọng nhất của Dự thảo 4 là không công nhận sự “tồn tại” hợp pháp của
một tổ chức tôn giáo trước pháp luật Việt Nam, qua việc không công nhận tổ chức
tôn giáo là một “pháp nhân” chiếu theo Điều 84-85 của Bộ Luật Dân sự 2005”.
Và cuối cùng Hội đồng GMVN thẳng thừng phán quyết: “Dự thảo 4 đi ngược lại
với Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế (Điều 18) và Hiến pháp 2013 (Điều 24). Chúng
tôi nhận thấy nó là một bước thụt lùi so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm
2004”.
Hiện giờ thì đã xuất hiện Dự thảo thứ 5, nhưng nó cũng chỉ có những sừa đổi râu
ria, nên Hội đồng Liên tôn, trong Bản trình bày về hiện tình tôn giáo tại VN
(gởi đến Hội nghị về Tự do tôn giáo vùng Đông Nam Á họp tại Bangkok hôm 29-09),
đã tố cáo: “a- Một Nhà nước vô thần với những chuyên viên không có kinh
nghiệm sống tôn giáo –thậm chí thuộc bộ Công an- lại lập luật cho niềm tin tôn
giáo và cho người có tín ngưỡng. Đó chỉ có thể là một luật kiểm soát sự hình
thành và hoạt động của các tôn giáo mà thôi. Dự thảo LTNTG dài gấp đôi Pháp
lệnh 2004, do đó tinh vi hơn và siết chặt hơn. b- Dự thảo LTNTG vẫn tiếp tục cơ
chế “xin-cho”, nghĩa là buộc phải xin phép đối với mọi hoạt động lớn nhỏ của
các Giáo hội, từ việc tổ chức cơ cấu, huấn luyện nhân sự, thủ đắc tài sản, đến
việc sinh hoạt phụng thờ, truyền bá giáo lý và liên hệ quốc tế… Mục đích là
kiểm soát, khống chế, lũng đoạn các Giáo hội, giới hạn các tôn giáo một cách
nghiêm ngặt hơn nữa và hình sự hóa mọi quyền liên quan đến tự do tôn giáo
(nghĩa là không xin phép, tức vi phạm luật)”.
Thứ đến, đối với Dự thảo Luật về Hội, theo nhận xét chung của nhiều
chuyên gia luật học, nó đã trao cho cơ quan quản lý nhà nước quyền can thiệp
quá sâu vào quá trình thành lập, nhân sự và hoạt động của hội. Dự thảo không tôn
trọng nguyên tắc tự do, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm của tổ chức hội, và nhằm
mục đích hạn chế, kiểm soát quyền tự do thành lập hội. Đồng thời nó cũng đi
ngược với tinh thần luật pháp quốc tế, biểu tỏ qua lời nói đầu của Nghị quyết
15/21 của Hội đồng Nhân quyền: “Quyền tự do lập hội là một trong những thành tố
thiết yếu của xã hội dân chủ." Xin nêu một vài điểm cụ thể trong Dự thảo:
- Khoản 3 điều 9 quy định về điều kiện thành lập Hội: “Lĩnh vực hoạt động chính
không trùng lắp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập hợp pháp
trước đó trong cùng phạm vi hoạt động.” Quy định này hạn chế các tổ chức
mới được thành lập nay mai. Bởi lẽ các hội do chính quyền thành lập trước đó
(trên 40, đang quy tụ trong cái rọ Mặt trận Tổ quốc) đã bao quát hầu hết các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Qui định này cũng không tạo ra sự cạnh tranh trong hoạt
động hợp pháp của các tổ chức hội, trái lại tạo ra sự độc quyền và độc đoán của
các hội do nhà nước đẻ ra. Như thế là tước quyền tự do lựa chọn hay thành lập
hội khi công dân có nhu cầu.
- Khoản 1 điều 10: “Công dân, tổ chức VN có nhu cầu thành lập hội phải dự
kiến danh sách những người tham gia ban vận động hội, đề nghị cơ quan nhà nước
có thẩm quyền công nhận ban thành lập hội.” Ban vận động thành lập hội có ý
nghĩa quyết định đến việc ra đời của hội. Nếu nó không được nhà cầm quyền công
nhận thì hội sẽ chẳng bao giờ hình thành cả. Buộc ban vận động thành lập phải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là chuyện vô lý và ngang ngược. Đây
sẽ là điều kiện để nhà cầm quyền loại bỏ ngay từ đầu những ai tham gia thành
lập hội mà họ không ưa thích, cụ thể là những ai từng tranh đấu cho nhân quyền
dân chủ.
- Khoản 4 điều 21 qui định: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và bãi
nhiệm chức danh người đứng đầu hội.” Việc bầu người đứng đầu hội là do đa
số các thành viên của hội tự do lựa chọn và quyết định. Cơ quan quản lý nhà nước
không có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của hội và càng không có quyền
công nhận hay bãi nhiệm chức danh người đứng đầu hội.
Ngoài ra còn vô số điều khác trong Dự thảo cho thấy nhà cầm quyền Việt cộng
không hề từ bỏ não trạng độc tài (duy mình có quyền lực) và toàn trị (phải kiểm
soát mọi tổ chức), để cuối cùng công cụ hóa hay ít nhất tê liệt hóa tất cả các
thực thể trong xã hội (công đoàn độc lập chẳng hạn).
Cuối cùng là dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi. Ai cũng biết văn bản qui
định tội phạm và hình phạt này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do và bất khả
xâm phạm về thân thể của con người, đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính
mạng,…. của công dân. Bởi thế các hành vi phạm tội được định nghĩa và mô tả trong
các điều luật phải rõ ràng và minh bạch, khoa học và cụ thể. Các hành vi bị coi
là phạm tội phải thực sự là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, cần phải
ngăn chặn và trừng phạt. Thế nhưng, trong dự thảo Bộ luật HS sửa đổi lần này có
rất nhiều qui định mơ hồ, không rõ rệt, rất dễ giúp cho các cơ quan tiến hành
tố tụng lạm quyền bắt giam, điều tra, truy tố, xét xử người vô tội, xâm phạm
tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xin nêu vài thí dụ:
-
Điều 109. “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân: Người nào hoạt động thành
lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, thì bị phạt như
sau: 1. Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình;
2. Người đồng phạm khác thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm; 3. Người chuẩn bị
phạm tội này thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Khoản 3 thật đáng lưu ý. Người chuẩn bị phạm
tội trong trường hợp này là người đang tìm hiểu để thành lập tổ chức, hoặc tìm
hiểu về một tổ chức nào đó để tham gia. Hành vi của họ chưa gây bất cứ nguy
hiểm gì cho xã hội. Hoặc sau khi tìm hiểu, họ chỉ dừng lại ở đó mà không thành
lập cũng chẳng tham gia vào một tổ chức nào. Do đó hành vi của họ hoàn toàn
không thể bị coi là phạm luật và bản thân họ không thể bị coi là tội phạm. Đúng
là một quy định hết sức man rợ và vô lý giữa nền luật pháp loài người.
-
Điều 117. “Tội làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài
liệu nhằm chống Nhà nước CHXHCN VN: 1. Người nào có một trong những hành vi sau
đây nhằm chống Nhà nước CHXHCN VN, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: a) Làm,
tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu có nội dung phỉ báng chính quyền nhân
dân; b) Làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu gây hoang mang trong nhân
dân. 2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10
năm đến 20 năm. 3. Người chuẩn bị phạm tội này thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm”. Một
người làm ra, tàng trữ các thông tin, tài liệu có nội dung phỉ báng chính quyền
mà không phát tán thì chả có ai biết. Như thế chẳng gây ra bất cứ hậu quả nào
cho xã hội và chính quyền cả. Ngoài ra, hành vi làm và tàng trữ thông tin, tài
liệu có nội dung phỉ báng chính quyền không thể coi là vi phạm pháp luật, là
hành vi phạm tội vì đó là quyền phê phán nhận định của công dân. Thứ đến, cụm
từ “gây hoang mang trong nhân dân” hết sức hàm hồ. Bởi trong thực tế, có rất
nhiều công dân, cơ quan báo chí đưa những thông tin, tài liệu có thật về chính
trị, kinh tế, xã hội,… rồi nhiều công dân khác chia sẻ chúng trên mạng xã hội.
Và tất nhiên chúng sẽ gây ra sự lo lắng, hoang mang cho mọi người. Nhưng đó là
sự thật và nằm trong quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Ngoài
ra, điều 177 này còn khiến người ta nhớ đến điều 88 điều
thường luật bị quốc tế lên án và đòi hỏi gỡ bỏ. Trước sức ép của quốc tế, Quốc
hội cân nhắc gỡ bỏ điều 88 này. Nhưng đó chẳng phải là tiến bộ, nhân nhượng.
Trái lại điều 117 còn vô nhân đạo hơn điều 88 cũ, vì bổ sung thêm cái mà điều
88 không có. Đó là kể cả người chuẩn bị phạm tội làm ra, tàng trữ, tán phán tài
liệu phỉ báng chính quyền, làm hoang mang trong nhân dân nhằm chống nhà nước
....cũng bị kết án tù từ 1 đến 5 năm. Đây là chi tiết mà điều 88 trước đó vốn
bị lên án nặng nề không quy định.
Nói tóm lại, chiến dịch sửa luật lần này của Hà Nội chẳng phải là để cởi mở
theo chiều hướng nhân đạo và dân chủ theo yêu cầu của quốc tế, đòi hỏi của nhân
dân chỉ là để siết luật hơn. Chiến dịch đó cho thấy nhà cầm quyền Việt cộng
ngày càng thêm thách thức và bất chấp, độc tài và nham hiểm, dối trá và hung
bạo. Để làm gì? Để củng cố quyền lực đang bị lung lay trước ý thức ngày càng rõ
và phản kháng ngày càng mạnh của nhân dân. Củng cố quyền lực để tiếp tục bóc
lột, vơ vét tư sản lẫn công sản cho cạn kiệt, rồi dông thẳng ra ngoại quốc, để
lại một quê hương điêu tàn cho bọn ngoại thù Bắc phương đang dòm ngó và chực sẵn.
BAN BIÊN TẬP
__._,_.___
No comments:
Post a Comment