Bước bình thường hóa quan hệ
Mỹ-Việt cuối cùng
Council on Foreign Relations
Cùng tác giả:
Sau một thời gian quan hệ ngoại giao bị cắt đứt sau khi chiến
tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, Hoa Kỳ và Việt Nam tái lập quan hệ ngoại giao
chính thức vào năm 1995. Kể từ đó, hai quốc gia đã gia tăng quan hệ kinh tế và
chiến lược mật thiết hơn, đến mức Hà Nội giờ đây là một trong những đối tác an
ninh thân cận nhất của Hoa Kỳ tại Châu Á. Với một đội quân chuyên nghiệp và địa
thế rất chiến lược, Việt Nam dần dà trở nên quan trọng cho lợi ích an ninh
trong vùng của Hoa Kỳ không thua gì các đồng minh và đối tác lâu đời như Thái
Lan và Mã Lai.
Cạnh đó, kinh tế Việt Nam, còn có thể mở rộng, hấp dẫn giới đầu
tư mới hơn là Thái Lan, nơi đầu tư nước ngoài giảm xuống 90% năm 2015. Mặc dầu
là một chế độ chuyên chính, Việt Nam, hiện giờ, tương đối ổn định so với các quốc
gia đang gặp vấn đề trong nỗ lực dân chủ hóa như Thái Lan và Mã Lai.
Tuy thế, mặc dầu tiến trình bình thường hóa chiến lược và kinh tế
đi từ tư, việc gỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí trong tuần này đánh dấu bước cuối cùng
để phục hồi lại quan hệ hoàn toàn. Mặc dầu tôi có quan tâm đến sự thoái lui dân
chủ trong vùng Đông Nam Á và tôi tin là Hoa Kỳ hợp tác hữu hiệu hơn với các xứ
dân chủ khác trên thế giới, tôi nghĩ là tháo bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí
là một động thái đúng.
Việc gỡ bỏ cấm vận không nên thực hiện với lý do không
thành thật: Việt Nam đã không cải thiện hồ sơ nhân quyền là bao trong những năm
gần đây (mặc dầu họ có thả một số người cầm bút và các nhà hoạt động xã hội dân
sự hồi năm ngoái), và không có chứng cớ gì cho thấy là gỡ bỏ cấm vận sẽ thuyết
phục Hà Nội mở rộng môi trường chính trị. Việt Nam không có lãnh tụ đối lập nào
nổi bật như ở Mã Lai hay Cam Bốt, và xã hội dân sự còn yếu, bị trù dập.
Ngoài ra, tháo gỡ cấm vận không có nghĩa là các công ty quốc phòng
Hoa Kỳ sẽ trúng thầu ào ạt với Hà Nội. Mặc dầu Việt Nam là một trong top 10
quốc gia mua vũ khí trên thế giới, trang thiết bị quân sự phần lớn là của Nga,
và vũ khí Nga rẻ hơn nhiều. Mặc dầu Việt Nam chú ý đến các tàu tuần tra và trực
thăng tuần duyên của Hoa Kỳ, cũng còn thời gian lâu trước khi Hà Nội mới có thể
mua chiến đấu cơ của Mỹ. Nga cũng thường hạ giá vũ khí.
Tuy thế, tình hình ngày càng căng thẳng tại Biển Đông, và tầm quan
trọng chiến lược và kinh tế ngày càng tăng của Việt Nam đã lấn át mối quan tâm
về nhân quyền. Ngoài ra, đại đa số người Việt không xem quan hệ chiến lược và
kinh tế của Hoa Kỳ với Việt Nam là sự nâng đỡ cho Đảng Cộng Sản.
Quan trọng hơn hết, việc tháo gỡ cấm vận và Việt Nam sốt sắng để
được xem là đối tác gần gũi với Hoa Kỳ trong khu vực, là chỉ dấu Hà Nội bỏ chiến
lược quân bằng quan hệ giữa Bắc Kinh và Washington.
Hà Nội đang chụp lấy quan hệ chiến lược gần
gũi hơn với các đối tác Châu Á của Mỹ như Phi Luật Tân, Nhật Bản, Singapore và
Ấn Độ, trong khi chẳng làm gì nhiều để điều chỉnh lại quan hệ căng thẳng với
Bắc Kinh. Tiếp sau chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng, lệnh cấm vận vũ khí được
tháo gỡ, và quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt gia tăng, gợi cho thấy là Nguyễn Phú
Trọng, được cho là cảnh giác trong quan hệ với Mỹ, nay đã chịu nghiêng về Washington.
Cũng chính ông Nguyễn Phú Trọng vào Tháng Năm 2014, tìm cách bắt liên lạc với
Bắc Kinh khi nổ ra vụ biểu tình phản đối giàn khoan dầu Hải Dương. Cả tuần lễ
đó Bắc Kinh không ai chịu trả lời ông hay gọi cho bất cứ lãnh đạo Việt Nam nào
khác.
Joshua Kurlantzick - Council on Foreign Relations
24-5-2016
24-5-2016
Hoàng Thuyên lược dịch
Theo Chân Trời Mới Media
__._,_.___
No comments:
Post a Comment