Rat
ddung can hieu ro them ve Che ddo Cong San
Neu
che do VNCH mau thuan nhu the nay, dda xay ra ddao chanh va sup ddo roi
26-1-2016
Nguyễn Tấn Dũng với Nguyễn Phú Trọng: Photo: HOANG DINH
NAM/AFP/Getty
Hôm đó là ngày 11
tháng 9, 1987 và Mikhail Gorbachev đang nghỉ ngơi trong một biệt thự ở Hắc Hải.
Một phụ tá trình lên ông lá thư từ chức Ủy viên Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Liên
Xô của Boris Yelstin. Gorbachev đọc lá thư mà không tin đó là sự thật. Trong lịch
sử đảng CSLX đây là lần đầu một lãnh tụ CS cấp trung ương từ chức. Đấu tranh
nội bộ dù sâu sắc như giữa Leon Trotsky và Stalin mấy chục năm trước cũng không
có chuyện từ chức. Việc tự ý rời nhiệm sở là việc chưa từng có và cũng không
được phép. Leon Trotsky bị tướt đoạt mọi chức vụ, loại trừ ra khỏi đảng năm
1927 và cuối cùng bị ám sát ở Mexico năm 1940.
Theo lời Gorbachev,
ông gọi về Moscow và ra lịnh cho các phụ tá đến khẩn thiết với Yelstin đừng
tiết lộ nội dung lá thư ra ngoài vì quần chúng và thế giới sẽ biết sự rạn nứt
trong nội bộ đảng CSLX. Hơn một tháng sau đó, trong phiên họp của ban chấp hành
trung ương đảng CSLX, Boris Yelstin chính thức từ chức.
Tuy phiên họp được tổ
chức trong vòng bí mật, các tin tức về Boris Yelstin từ chức cũng đã nhanh chóng
lọt ra ngoài. Mảnh vỡ đó đã dẫn tới tự tan vỡ từ trung tâm đảng CSLX, một tổ
chức chính trị bí mật, sắt máu và chặt chẽ nhất từ trước đến nay. Đặc điểm bí
mật và sắt máu đã giúp cho cơ chế CS tồn tại với một kỷ lục 74 năm tại Liên Xô
so với Đảng Cách Mạng Thể Chế Mexico (Mexico’s Institutional Revolutionary
Party) cầm quyền được 71 năm.
Nhưng đó không phải
là lý do duy nhất.
Nhân dịp có sự đụng
độ cá nhân giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng trong đại hội đảng CS lần
thứ 12 này, người viết xin tổng kết các lý do chính để những ai, nhất là những
người nghĩ mình đang đấu tranh cho dân chủ Việt Nam, hy vọng sự rạn nứt giữa
Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng sẽ dẫn đến những thay đổi căn bản và tốt
đẹp cho đất nước thì cũng đừng mơ mộng và kỳ vọng nữa.
Việc mong đợi đảng CS
tự thay đổi chẳng những làm nhụt ý chí đấu tranh, chứng tỏ sự yếu kém của mình
mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến cả các phong trào dân chủ đang cố gắng vươn lên.
Những thư kiến nghị, thỉnh cầu lần nữa “đem đàn gảy tai trâu” như bao nhiêu lần
trước. Với Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng, quyền lợi của đảng bao giờ cũng
được đặt lên trên quyền lợi cá nhân. Rồi mai đây, sóng gió trong nội bộ đảng sẽ
qua, Nguyễn Tấn Dũng mất quyền nhưng không mất lợi, chỉ có đất nước là bị xâm
thực dần cho đến khi mất hẳn vào tay Trung Cộng.
Dưới đây là sáu lý do
(*):
1. Đảng CS kiểm soát toàn bộ cơ cấu kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội bằng tuyên truyền và khủng bố.
Lý do này rất hiển
nhiên và dễ hiểu. Tuyên truyền kết hợp với khủng bố tạo thành cột xương sống
của chế độ độc tài CS. Ngoài nhà tù và sân bắn, đảng CS áp dụng một chính sách
tuyên truyền tàn độc nhất trong lịch sử loài người. Tinh vi đến mức người bị
tẩy não hoàn toàn không biết mình bị tẩy não mà cho CS là một lý tưởng của đời
người và hiến thân cho đến chết.
Sau cách mạng CS Nga,
1917, công việc đầu tiên Lenin phải làm ngay là thành lập cơ quan tuyên truyền
Agitprop và trong giai đoạn đầu còn do chính Lenin đích thân lãnh đạo. Tại
Trung Cộng cũng vậy, trong đại hội đảng CS Trung Quốc lần đầu vào năm 1921 chỉ
bầu ra vỏn vẹn ba ủy viên trung ương nhưng một trong ba ủy viên đó chịu trách
nhiệm tuyên truyền.
Cơ quan tuyên truyền
tẩy não trung ương đảng kiểm soát từng chi tiết các sinh hoạt tri thức, thông
tin, truyền thanh, truyền hình, báo chí. Hệ thống kiểm duyệt trong chế độ Cộng
Sản không chỉ ở trung ương mà theo nhiều tầng lớp. Ngay cả khi các tác giả viết
bài cũng đã thực thi tự kiểm duyệt vì họ biết những gì nên viết và những gì
không được viết trước khi nạp bản thảo cho cơ quan kiểm duyệt nhà nước. Các tác
phẩm phim ảnh được duyệt nhiều lần để bảo đảm khi đến người dân không có một
tình tiết nào đi ngược với đường lối của đảng.
Để tồn tại sau những
đãi lọc của văn minh nhân loại, phương pháp và mục đích tuyên truyền CS cũng
thay đổi theo thời gian. Chẳng hạn, trước năm 1990 nền giáo dục CS đặt nặng lên
học thuyết Marx-Lenin nhưng sau này thêm vào một cái đuôi tư tưởng dân tộc như
tư tưởng Mao tại Trung Cộng và tư tưởng Hồ Chí Minh tại Việt Nam.
2. Đấu tranh nội bộ nhưng có cùng một mục
tiêu và bị chi phối bởi một kỹ luật đảng.
Lịch sử phong trào CS
thế giới từ Liên Xô đến Trung Cộng hay như vừa diễn ra tại Việt Nam cho thấy dù
có đấu tranh nội bộ, các lãnh tụ CS luôn đặt mục tiêu chung của đảng lên hàng
đầu. Các lãnh đạo đảng chọn hy sinh quyền lợi cá nhân vì sự sống còn của đảng.
Tất cả đảng viên CS bị chi phối bởi một cương lĩnh duy nhất là cương lĩnh đảng
CS.
Để duy trì tính thống
nhất, đảng CS áp dụng một kỹ luật sắt trong nội bộ đảng.
Ngoại trừ trường hợp
Khrushchev tố Stalin trong đại hội lần thứ 20 của đảng CS Liên Xô, ít khi nào
một lãnh đạo Cộng Sản đứng lên thẳng thắn vạch trần tội lỗi của lớp lãnh đạo
trước. Làm như thế là phản đảng vì đã tạo chỗ hở cho kẻ thù tấn công vào đảng.
Không ai tiên đoán được số phận của Boris Yelstin ra sao nếu ông ta từ chức,
đừng nói chi dưới thời Stalin mà chỉ 10 năm trước đó.
Đời tư các lãnh tụ CS
là tài sản bí mật của đảng. Các lãnh tụ độc tài dù tự sát như Adolf Hitler, bị
giết như Benito Mussolini hay bị treo cổ như Hideki Tojo, tội ác của họ cũng đều
được phanh phui sau Thế chiến Thứ hai.
Các thế hệ lãnh tụ CS thì khác. Tội ác
của các lãnh tụ CS được che giấu kỹ. Vai trò của Kim Nhật Thành trong chiến
tranh chống Nhật, Hồ Chí Minh trong chiến tranh chống Pháp, Fidel Castro trong
chiến tranh chống độc tài Batista, Stalin trong chiến tranh chống Đức, Mao
Trạch Đông trong chiến tranh chống Nhật được đề cao đến độ nếu không có họ có
thể toàn dân tộc đã bị xóa tên khỏi lịch sử loài người. Hình ảnh Mao Trạch Đông
chính thức tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hình ảnh Hồ Chí
Minh đọc “tuyên ngôn độc lập” đã được đánh bóng sáng đến mức mọi tội tác tày
trời khác của họ đã trở thành trộm vặt.
3. Bảo vệ tính kế tục cai trị của đảng.
Chế độ CS là một chế
độ phong kiến đỏ và do đó, đặc điểm kế tục cai trị CS vô cùng quan trọng.
Trường hợp Đặng Tiểu
Bình đối với Mao Trạch Đông là một ví dụ điển hình. Đặng Tiểu Bình là một trong
những người chịu đựng sự hành hạ và mất mát lớn lao về nhân mạng trong thời
Cách mạng văn hóa. Bản thân Đặng Tiểu Bình bị chính Mao thanh trừng nhiều lần
và con trai của họ Đặng trọng thương khi bị ném từ cửa sổ xuống đường.
Chuyện
đời tư của Mao, từ bản chất độc tài, nghi kỵ cho đến cá tính trăng hoa dâm dật,
Đặng Tiểu Bình biết hơn ai hết, nhưng khi lên nắm quyền hành, ông ta vẫn tiếp
tục sơn son thiếp vàng lên một hình tượng mà cá nhân ông vô cùng căm hận. Trên
đồng nhân dân tệ từ đơn vị một đồng cho đến một trăm đồng vẫn in khuôn mặt mỉm
cười của một trong những kẻ từng điều khiển bộ máy giết người tập thể khủng
khiếp nhất trong lịch sử nhân loại.
Là một trong số rất
ít lãnh đạo Cộng Sản lão thành còn sót lại từ thời Vạn lý trường chinh và cũng
quá thuộc sử Tàu, Đặng Tiểu Bình biết, giống như các triều đại phong kiến Trung
Hoa, đặc tính kế thừa của một quyền lực trung tâm là một yếu tố sinh tử của chế
độ Cộng Sản.
Họ Đặng biết rằng điểm trung tâm vỡ toàn bộ hệ thống cai trị sẽ vỡ
theo. Đặc điểm kế tục còn được thể hiện qua tầng lớp “Thái tử đảng”, con cháu
của các cựu lãnh đạo đảng, tiếp tục vai trò lãnh đạo như trường hợp Ôn Gia Bảo,
Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình tại Trung Cộng. Tại Việt Nam, thành phần “Thái tử
đảng” cũng đang “nối bước cha anh”.
4. Sử dụng “thành phần xăng nhớt” cho bộ
máy toàn trị.
Thành phần trung
thành và cuồng tín do chính sách tẩy não nặn ra đa số là những kẻ dốt nát, ngu
ngốc, phát biểu những câu chỉ làm trò cười cho thiên hạ và không thể điều hành
bộ máy nhà nước. Bộ máy độc tài toàn trị CS chạy được nhờ vào một thành phần
khác có trình độ kỹ thuật chuyên môn cao thuộc các lãnh vực của đời sống mà
người viết tạm gọi là “thành phần xăng nhớt”.
Khá đông trong “thành
phần xăng nhớt” này là những người có học, có kiến thức về kinh tế chính trị,
khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội, biết được lẽ đúng sai nhưng thỏa hiệp với
tập đoàn cai trị để đổi lấy một cuộc sống an nhàn, vinh hoa cho bản thân và gia
đình. Thành phần này chấp nhận là xăng nhớt cho bộ máy độc tài tiếp tục cày xéo
lên đất nước. Nhiều trong số họ được đào tạo tại các trường đại học danh tiếng
thế giới, học và hiểu tường tận các nguyên tắc để xây dựng một xã hội dân chủ
nhưng khi về nước họ đã bán thân cho đảng CS.
Một khi lớp xăng nhớt này trở
thành cặn bã lại có một lớp khác lên thay. Như người viết đã phân tích trong
bài “Bàn vê tẩy não”, Albert D. Biderman trong bản tin của Viện Hàn Lâm Y Khoa
New York gọi thành phần này là những người “cho thấy việc chống lại chỉ là hành
động vô ích”, từ đó “phát triển một thói quen tuân phục”, và cuối cùng “đầu
hàng có điều kiện” trước đảng CS.
5. Các lãnh tụ CS chỉ giết nhân dân nước
họ nên thế giới ít quan tâm.
Không giống chế độ
độc tài Đức Quốc Xã tàn sát dân Do Thái, lãnh đạo Cộng Sản các nước thường giết
chính đồng bào cùng máu mủ, cùng tổ tiên, cùng đất nước với họ.
Ngay từ sau 1975, dư
luận thế giới đã biết đến tội ác của chế độ Pol Pot. Năm 1976, tạp chí Time còn
đăng cả bức hình một tội nhân đang bị đánh vào đầu bằng cuốc, tuy nhiên, ngoài
Việt Nam tấn công chế độ bằng một lý do riêng vào tháng Giêng, 1978, không một
quốc gia nào có hành động cụ thể để ngăn chặn tội ác của Pol Pot.
Theo Black Book of
Communism do Harvard do Harvard University Press xuất bản, gần một trăm triệu
người bi giết dưới chế độ CS nhưng không phải do nước ngoài xâm lược mà do
chính các lãnh tụ CS giết nhân dân nước họ như trường hợp Mao giết 65 triệu,
Lenin và Stalin giết 20 triệu, Pol Pot giết 2 triệu, Hồ Chí Minh giết 1 triệu
(không tính nhiều triệu người Việt vô tội của cả hai miền trong chiến tranh
xích hóa Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975).
6. Lãnh đạo Cộng Sản thường tận dụng ảnh
hưởng của kẻ thù đã chết.
Những lãnh tụ Cộng
Sản thường tận diệt kẻ thù còn sống nhưng ca tụng kẻ thù đã chết. Stalin ca
tụng Lenin, Fidel Castro ca tụng Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu Bình ca tụng
Mao Trạch Đông.
Lấy trường hợp Che làm
ví dụ. Nếu Ernesto “Che” Guevara không làm cách mạng phiêu lưu Nam Mỹ mà tiếp
tục ở lại Cu Ba, thất khó tưởng tượng ông ta có thể sống sót dưới bàn tay của
Fidel Castro. Một rừng không có hai cọp, một nước không có hai vua, đừng nói
chi là quan hệ giữa Che và Fidel Castro rạn nứt trước khi Che tạm biệt vợ con
lần cuối và lên đường đi Bolivia cuối năm 1966. Che chủ trương kỹ nghệ hóa đất
nước, Fidel Castro chủ trương củng cố quyền lực trung ương.
Sự khác biệt của Che
và Fidel Castro khá giống trường hợp của Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông. Nhưng
hôm nay, nếu ai đến Havana, sẽ gặp hình ảnh Che trên khắp ngả đường. Xác chết
không nghe được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong
các biệt thự có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới
thật sự là những kẻ hưởng thụ quyền lực.
Chủ nghĩa Cộng Sản đã
tàn rụi ở châu Âu nhưng trong năm nước còn sót lại sự khổ đau, chịu đựng vẫn
còn đến hôm nay và không biết đến bao giờ mới hết. Chiến tranh Lạnh đã tàn. Các
nước tư bản tự do vì lý do kinh tế đã không còn giương cao ngọn cờ dân chủ như
trước nữa.
Họ mặc nhiên chấp nhận chế độ Cộng Sản như là một thực tế của mỗi
quốc gia hơn là một phong trào quốc tế. Nhân dân Bắc Hàn, Cu Ba, Việt Nam, Lào,
Trung Hoa vì thế sẽ tiếp tục là những dân tộc chịu đựng trong cô đơn.
Trần Trung Đạo
__._,_.___
No comments:
Post a Comment