xx

Thursday 9 June 2016

Trí Việt không thể là một trí thức cưu mang hận thù....Tôn Nữ Thị Ninh, đại biểu xuất sắc của trí thức xã hội chủ nghĩa


Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
kính chuyển :

Bài của ông Trần Trung Đạo
June 8, 2016 10:44
Tôn Nữ Thị Ninh, đại biểu xuất sắc của trí thức xã hội chủ nghĩa
Khi phê bình đảng CS, có người mạnh miệng nhận xét “Đảng CS thực tế chỉ là một đảng Mafia”. Ý nói đảng CS chỉ là tổ chức tội ác giết người cướp của trên một tầm vóc quốc gia chứ chẳng còn ý thức hệ CS như thời Liên Xô chưa tan rã. Thật ra, nói vậy không đúng và nếu có cũng chỉ một góc cạnh “giết người cướp của”. Nếu đảng CS là đảng Mafia thì đã sụp đổ lâu rồi.

Định nghĩa đúng nhất cho trường hợp chế độ CS Trung Cộng và Việt Nam là định nghĩa của giáo sư sử học Roderick Macfarquhar, thuộc đại học Harvard khi ông gọi là chủ nghĩa CS hiện nay là một loại chủ nghĩa Lenin không có Marx.
Chủ nghĩa Lenin do hai bộ phận cấu thành (1) một nhà nước chuyên chính sắt máu và (2) tuyên truyền lý luận tư tưởng tinh vi.

Bộ phận nhà nước chuyên chính rất rõ nét và gần như ai cũng thấy, nhưng đảng CS không tồn tại chỉ bằng nhà tù sân bắn mà còn được che chở bằng một hàng rào lý luận tuyên truyền vô cùng tinh vi thâm độc. Tuyên truyền là cột xương sống của chế độ CS. Như người viết đã có dịp trình bày trong những bài trước, sau cách mạng CS Nga 1917, công việc đầu tiên Lenin là thành lập cơ quan tuyên truyền Agitprop và trong giai đoạn đầu còn do chính ông ta đích thân lãnh đạo. Tại Trung Cộng cũng vậy, trong đại hội đảng CS Trung Quốc lần đầu vào năm 1921 chỉ bầu ra vỏn vẹn ba ủy viên trung ương nhưng một trong ba ủy viên đó chịu trách nhiệm tuyên truyền.

Tầng lớp “trí thức xã hội chủ nghĩa”

Bộ máy tuyên truyền sẽ không chạy được nếu thiếu đi một tầng lớp có học, có địa vị xã hội tự nguyện làm xăng nhớt. Thành phần đó gọi chung là “trí thức xã hội chủ nghĩa”.

Trước khi viết tiếp, người viết xin dừng lại ở đây để bày tỏ lòng biết ơn dành cho những trí thức chân chính và xứng đáng được kính trọng. Họ là những người có trình độ văn hóa giáo dục cao, những văn nghệ sĩ đang công khai hay âm thầm tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, tốt đẹp, tự do và dân chủ trong điều kiện và hoàn cảnh riêng của họ. Họ không thuộc thành phần mà người viết sắp bàn.

Thành phần “trí thức xã hội chủ nghĩa” chia sẻ ba đặc điểm chung: (1) có học, khoa bảng (2) chủ nghĩa cơ hội, (3) bồi bút, uốn lưỡi bảo vệ đảng trung thành. Một đại biểu xuất sắc trong tầng lớp này và có đủ ba đặc điểm vừa nêu là bà Tôn Nữ Thị Ninh.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh thỏa mãn đặc điểm thứ nhất dễ dàng vì bà thuộc thành phần khoa bảng, mang họ hoàng tộc. Phần lớn thời tuổi trẻ của bà lớn lên dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa và được đi du học tại các trường nổi tiếng tại Pháp, Anh. Bà về nước dạy đại học Sư Phạm Sài Gòn và từng là Phó Ban Anh Ngữ của trường.

Trong thời gian ở Pháp, bà Ninh quen biết các thành viên của phái đoàn CS “Chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” và phụ giúp công việc phiên dịch tại những buổi gặp gỡ không chính thức của họ. Như bà kể lại trong bài báo Paris: ‘Vườn ươm’ lực lượng, bà “không được chứng kiến các cuộc đàm phán chính thức”, phần lớn những gặp gỡ đều qua trung gian của các “hội yêu nước” và được bà Nguyễn Thị Chơn, vợ ông Trần Bạch Đằng, “bồi dưỡng chính trị”. Thành phần có học nhưng bị lá bùa “độc lập, tự do” của CS mê hoặc tại Pháp thời đó rất nhiều như bà thừa nhận với phóng viên Hoàng Thi trên báo Nhân Dân “tại Pháp, tôi đã tham gia phong trào phản chiến đang diễn ra rất sôi nổi nơi đây”.

Sau 30-4-1975, bà Tôn Nữ Thị Ninh cũng chỉ sinh hoạt trong “Hội trí thức yêu nước” như phần lớn các nhà giáo, văn nghệ sĩ thuộc “thành phần thứ ba” ở Sài Gòn như Lý Quí Chung, giáo sư Trần Văn Tấn, giáo sư Trần Phước Đường, nữ nghệ sĩ Phùng Há, nhà báo Tô Nguyệt Đình, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba chứ không đóng vai trò gì quan trọng. Thành phần này, trong đó có bà, được đảng thưởng công bằng chuyến “tham quan” các nước CS như Lý Quí Chung kể lại trong hồi ký của ông ta.
Đường công danh dưới chế độ CS của bà Ninh chỉ thật sự bắt đầu khi tình cờ gặp ông Xuân Thủy năm 1978. Từ đó, trong giai đoạn giao thời đảng đang cần người có khả năng giao tiếp với thế giới mà họ chưa từng biết qua, và bà nắm lấy cơ hội. Không giống như những người CS theo đuổi mục đích CS, vào tù ra khám hiến thân cho canh bạc của cuộc đời họ, bà chỉ là một kẻ cơ hội chủ nghĩa.
Hai đặc điểm, khoa bảng và chủ nghĩa cơ hội nói trên, dù không mấy tốt đẹp, cũng chỉ có tính cách cá nhân và không phải là tội ác, đặc điểm bồi bút trung thành và uốn cong ba tấc lưỡi để bảo vệ đảng CS của bà Ninh mới thật sự là một tội ác trí thức vì đã gây tác hại đến nhiều người. Dưới đây là vài ví dụ chứng minh bà Ninh bẻ cong ngòi bút.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh và nguyên tắc dân chủ kiểm soát và cân bằng (checks and balances)

Trong Tạp Chí Cộng Sản số tháng 6, 2007, bà Tôn Nữ Thị Ninh viết về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam: “Cần có một cơ chế “đối trọng” (phương Tây gọi cơ chế này là checks and balances). Đối trọng của ta là trong phạm vi chế độ, là sự kiểm tra giám sát của các đoàn thể quần chúng, chứ không phải là đối trọng về chính trị. Quốc hội có vai trò, tư pháp cũng phải độc lập, đoàn thể phải vào cuộc, nếu không hệ thống chính trị của ta sẽ không có cơ chế tự điều tiết.”

Hẳn nhiên, với trình độ giáo dục cao và tiếp cận nhiều với sinh hoạt chính trị dân chủ Âu Châu trước đây, bà Ninh biết rõ khái niệm kiểm soát và cân bằng (checks and balances) nhằm sự kiểm soát lẫn nhau để giữ sự cân bằng và công bằng giữa các ngành trong các chế độ dân chủ pháp trị. Nguyên tắc này ra đời nhằm giới hạn quyền hành của chính phủ (hành pháp) thường rất dễ bị lạm dụng. Sự đối trọng giữa các ngành trong cơ chế chính trị chỉ hữu hiệu khi các ngành đó có được sự độc lập về quyền hạn và trách nhiệm. Một sinh viên lấy lớp chính trị học nhập môn cũng nắm vững định nghĩa căn bản đó.

Thế nhưng bà uốn cong định nghĩa “checks and balances” giữa các ngành trong chế độ dân chủ pháp trị thành một khái niệm giữa quần chúng (không có tiếng nói) và nhà nước (nắm hết quyền lực). Tại Việt Nam ai đối trọng với ai, ai kiểm soát ai và ai cho phép tạo nên sự cân bằng quyền lực trong hệ thống chính trị bị chỉ đạo bởi một đảng duy nhất là đảng Cộng sản?

Một người có hiểu biết căn bản nào cũng trả lời được, dưới chế độ CS không ai, không một tập thể, không một thành phần nhân dân nào đứng trên quyền lực của đảng CS. Thời gian 2006 bà Ninh là “Đại biểu Quốc hội” đơn vị Vũng Tàu và hơn ai hết bà biết chức “Đại biểu Quốc hội” của bà chẳng phải do người dân Vũng Tàu nào tự nguyện bầu bà lên mà chỉ là hư danh do đảng CS trả công cho bà.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh chống đối Bob Kerrey

Theo phóng sự điều tra của Gregory L. Vistica trên New York Times phát hành ngày 25 tháng Tư, 2001, vào đêm 25 tháng Hai, 1969, đội SEALs (đơn vị đột kích tinh nhuệ của hải quân Mỹ viết tắt của chữ Sea, Air and Land Teams) dưới quyền chỉ huy của Trung Úy Bob Kerrey, 25 tuổi, tiến vào làng Thạnh Phong với mục đích tiêu diệt một phiên họp của Việt Cộng với sự tham gia của một lãnh đạo quân sự. Sau khi thanh toán mục tiêu thứ nhất bằng dao để khỏi lộ mục tiêu, đơn vị SEALs bị trong làng bắn ra. Với tin tức tình báo nhận được, đội SEALs đinh ninh một phiên họp của lãnh đạo CS cao cấp đang diễn ra và đã bắn trả quyết liệt. Đừng quên, lúc đó đã sau 9 giờ tối trong một đêm không trăng tại ngôi một làng hẻo lánh tối tăm chứ không phải trưa ban ngày giữa đồng rộng hay đường lớn để có thể nhận diện dễ dàng. 

Bob Kerrey kể lại ông ta không thấy ai hết. Khi phản công chấm dứt, toán SEALs tiến vào các chòi lá và hình ảnh mà Bob Kerrey sẽ nhớ đến giờ chết là không có một chỉ huy Việt Cộng nào mà chỉ toàn là thường dân, đàn bà và trẻ con bị giết. Tuy nhiên, Gerhard Klann, một đội viên SEALs dưới quyền Kerrey kể khác rằng trong chòi lá thứ nhất không chỉ có đàn ông mà còn có đàn bà và trẻ em, và chính Bob Kerrey không những ra lịnh mà còn tham gia vào việc giết những người trong chòi lá thứ nhất. Lời kể của Klann trùng hợp với kể của nhân chứng Việt Nam Pham Tri Lanh. Bob Kerrey không đồng ý với Klann nhưng nhận lỗi lầm với tư cách chỉ huy. Các đội viên khác có người ủng hộ lời kể của Bob Kerrey và có người từ chối trả lời. Nói chung các lời kể rất rời rạc, trước sau không thống nhất. Kerrey nhắc lại nhiệm vụ chính của các toán SEALs là tiêu diệt một mục tiêu được giao phó và nhiệm vụ của đội SEALs vào làng Thạnh Phong đêm đó là tiêu diệt chứ không phải bắt tù binh.

Sau khi bị thương và giải ngũ về nhà, Kerrey kể lại thảm sát Thạnh Phong cho mẹ nghe và mẹ ông ta khóc.

Với nhiều người khác, biến cố là một tai nạn giết lầm, đổ thừa cho tình báo, cho cấp chỉ huy, cho chiến tranh và rồi ăn ngon ngủ kỷ. Nhưng với Bob Kerrey, lương tâm ông bị cắn rứt và đã làm rất nhiều trong lãnh vực giáo dục để xoa dịu vết thương giữa hai dân tộc cũng như đau đớn tinh thần của riêng ông. Với kinh nghiệm chín năm làm chủ tịch của New School University ở New York, ông hy vọng sẽ áp dụng những vốn liếng đó vào việc lãnh đạo Fulbright University Vietnam và nâng trường lên đẳng cấp quốc tế. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cũng nhấn mạnh yếu tố chuyên môn kết hợp với tình cảm cá nhân trong diễn văn đầy tinh thần hòa giải của ông khi giới thiệu Fulbright Vietnam. Bob Kerrey với kinh nghiệm lâu năm trong ngành giáo dục, một cựu Thượng Nghị Sĩ, cựu ứng cử viên tổng thống, nhà chính trị có quan hệ rộng rãi với chính giới Hoa Kỳ và gắn bó tinh thần với Việt Nam xứng đáng để lãnh đạo Fulbright University Vietnam.

Thay vì thuận theo tinh thần hòa giải được khơi dậy trong diễn văn của Ngoại trưởng John Kerry và mở rộng hơn cánh cửa giáo dục cho các thế hệ Việt Nam, máu cơ hội ”chống Mỹ cứu nước” trong bà Tôn Nữ Thị Ninh sôi sục lên và bà phán: “Ông Bob Kerrey là người đã trực tiếp tham gia vào cuộc thảm sát thường dân vô tội, phụ nữ, trẻ em, người già tại thôn Thạnh Phong vào tháng 2/1969. Điều này không thể chối cãi và chính ông Kerrey cũng thừa nhận. Có thể nhìn nhận vấn đề ở nhiều mức độ khác nhau, cả phía Việt Nam và phía Mỹ. Nhưng một điều chắc chắn, sự việc đó là đủ để kết luận Bob Kerrey, nói theo cách nhẹ nhất, hoàn toàn không thể giữ vị trí Chủ tịch Đại học Fulbright Việt Nam. Và cũng không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật đó. “

Khi nhắc đến câu “không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật”, không biết bà có nhìn quanh thử mình đang sống ở đâu không. Bà đang sống trong một đất nước mà nơi đó sự thật chỉ là chiếc bánh tuyên truyền rẻ tiền và hư thối đến nỗi một đứa bé đói khát cũng không thèm cầm lấy. Chắc bà không lạ gì những nhãn hiệu “Nhà Xuất bản Sự Thật”, “Báo Sự thật” v.v.

Nếu bà thật sự quan tâm đến sự thật và căm ghét những kẻ đã giết dân vô tội, hãy về Huế một lần trong dịp Tết để hỏi thăm đồng bào Huế của bà những ai là kẻ giết người và những ai là người có thân nhân bị giết, không phải 24 người mà nhiều ngàn người. Những kẻ chôn sống nhiều ngàn dân Huế không nói tiếng Anh như Bob Kerrey mà có một giọng nói rất giống bà.

Nếu bà quan tâm đến sự thật hãy tìm đến các “Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân” và hỏi họ đã giết bao nhiêu “Mỹ Ngụy” còn mặc tả ở nhà hàng Mỹ Cảnh, bao nhiêu mái đầu xanh ở rạp hát Kinh Đô, bao nhiêu em bé chết trong tay còn ôm cặp ở tiểu học Cai Lậy v.v.. Hàng ngàn cuộc thảm sát do CS gây ra trên đất nước Việt Nam đang cần được đưa ra dưới ánh sáng sự thật và công lý.

Bob Kerrey có lỗi với ai?

Bà Ninh phát biểu bằng một giọng trịch thượng và hằn học “Việc ông hối hận về vai trò trong vụ thảm sát Thạnh Phong tôi không thể biết và chỉ có mình ông Kerrey biết. Không thể coi việc giữ vị trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ”. Việc bà “không thể biết” là tại bà kém thông tin nhưng cựu TNS Bob Kerrey hay Ngoại trưởng John Kerry không cần phải báo cho bà biết.

Người viết không binh vực cho Bob Kerrey. Bob Kerrey dù trực tiếp ra tay, ra lịnh hay không vẫn là người có lỗi. Nhưng ông ta chỉ có lỗi với nhân dân Việt Nam, với thân nhân những người bị toán SEALs của ông giết chứ không có lỗi gì với đảng CS và nhà nước CS mà bà Ninh đang cung phụng. Dước các chế độ dân chủ, vai trò, chức năng và sự phân định giữa nhân dân và chính phủ rõ ràng chứ không đánh lận con đen đảng cũng chính là dân tộc, đảng cũng chính là tổ quốc như dưới chế độ CS.

Một lỗi lầm của Bob Kerrey trong chiến tranh không làm cuộc chiến bảo vệ tự do của miền Nam mất đi chính nghĩa và cũng không giúp đảng CSVN có chính nghĩa.

Hôm 27 tháng Năm vừa qua, trong chuyến viếng thăm Hiroshima, Nhật Bản, TT Barack Obama bày tỏ lòng thương tiếc đối với nạn nhân bom nguyên tử của Mỹ và cảm tình đối những người sống sót nhưng ông không xin lỗi. Cuộc chiến chống Phát Xít Nhật là cuộc chiến chính nghĩa. Những kẻ phải chịu trách nhiệm cho điêu tàn của nước Nhật và chết chóc của nhân dân Nhật là lãnh đạo chế độ quân phiệt Phát Xít Nhật thời đó chứ không phải Mỹ.
Tương tự, trong lúc không thể so sánh nỗi đau bằng một nỗi đau, thảm sát Thạnh Phong cũng phải được nhìn từ nguyên nhân đến hậu quả của cả cuộc chiến Việt Nam.

Cái chết của 24 người dân làng Thạnh Phong, phân tích cho cùng, cũng không khác gì cái chết của năm ngàn người dân Huế, của 32 học sinh trường tiểu học Cai Lậy, của 13 cô gái Thanh niên Xung phong ở Ngã Ba Đồng Lộc, của Nguyễn Văn Thạc, của Đặng Thùy Trâm, của bao nhiêu thế hệ thanh niên miền Bắc và nói rộng hơn của ba triệu người dân Việt khắp hai miền do âm mưu Bolshevik hóa Việt Nam bằng bạo lực của đảng CS.
Chủ trương CS hóa Việt Nam đã được in đậm trong cương lĩnh đầu tiên của đảng CS từ 1930 chứ không phải sau khi Mỹ đổ bộ xuống Đà Nẵng 1965. Dù Mỹ có đến hay không thì mục tiêu tối hậu của đảng CSVN vẫn không thay đổi. Bà Ninh hãy trả lời giùm câu hỏi “Nếu đảng CSVN không chủ trương thôn tính miền Nam bằng võ lực thì thảm sát Thạnh Phong có xảy ra không?”

Thành phần “trí thức xã hội chủ nghĩa” như bà Tôn Nữ Thị Ninh chẳng những không đóng góp được gì vào việc làm thăng tiến xã hội, thúc đẩy nhanh hơn cuộc cách mạng tự do và nhân bản đất nước, giúp đưa dân tộc chúng ta vượt qua những bế tắc tư tưởng và chính trị để hội nhập vào dòng thác tiến bộ của nhân loại, mà với khả năng bồi bút, uốn cong ba tấc lưỡi, thành phần này đã trở thành bức tường chắn ngang tiến trình khai phóng đất nước và đó là một tội ác.

Trần Trung Đạo
*************
__._,_.___

Posted by: =?utf-8?Q?Lien_Ho=C3=AE_Nh=C3=A2n_Quy=C3=AAn

Trí Việt không thể là một trí thức cưu mang hận thù

Hồ Phú Bông
clip_image002
Nhà văn Nguyên Ngọc và bà Tôn Nữ Thị Ninh. Ảnh: internet

Nhà văn Nguyên Ngọc, mà báo chí trong nước gọi ông là “Cây xà nu Tây Nguyên”, trong bài viết “Về trường hợp Bob Kerrey”, đã kết luận: “Còn riêng đối với chúng tôi thì sao, chúng tôi, những người từng là lính Việt Cộng thời thảm khốc ấy, khi chúng tôi vẫn từng ‘nấp’ trong nhân dân vô tội, để họ có thể cùng chết với chúng tôi? 

Kể cả, ngày ấy, như chính tôi từng được trải nghiệm, có bao bà mẹ, và cả các em bé nữa, sẵn sàng chết để che cho chúng tôi? Hóa ra tự chúng tôi cũng còn một câu hỏi…”

Sau khi dẫn chứng rất chi tiết thái độ của ông Kerrey khi hồ sơ về nạn nhân tại Thôn Thạnh Phong tháng 2/1969 được đưa ra ánh sáng! Là, ông không muốn bất cứ ai tìm cách thanh minh hộ ông vì ông trong toán lính biệt kích SEAL hôm đó!

Ông xác nhận là “có tội” và “đã xin lỗi nhiều lần”. Một mặt là mặc cảm tội lỗi, mặt khác là hướng về tương lai nơi mình đã gây ra, cho đất nước và con người Việt Nam. Việc làm đó tự nó đã nói thay cho tất cả. Vì, không ai có thể thay đổi được quá khứ mà chỉ có thể học hỏi từ quá khứ để thay đổi tương lai.

Điều ông Bob Kerrey đã làm cật lực với một thời gian dài đằng đẵng mới có kết quả như hiện tại nhưng tại sao lại biến thành “vấn đề”? Vấn đề chỉ vì một chức vụ của Đại học Fulbright tại Sài Gòn!

Còn, cũng với cùng một thời gian như vậy, chế độ cộng sản đã làm gì?

Về mặt chính trị, quân sự, kinh tế… thì vẫn tìm mọi cách nhờ vả Hoa Kỳ. Điển hình là liên lạc con thoi để có được TPP hay lệnh bỏ cấm vận vũ khí sát thương! Trong khi đó thì báo đài vẫn tuyên truyền hàng ngày về tội ác của đế quốc Mỹ, đặc biệt như diễn văn của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc trong lễ 30 tháng Tư năm 2015, tức là tròn 40 năm ngày 30 tháng Tư! Đó chính là điều chế độ muốn đảng viên khắc cốt ghi xương, đã đành, nhưng họ vẫn cố gắng khắc ghi vào trí não lớp người trẻ Việt Nam mới nghiêm trọng!
Đấy là một việc làm vô nhân tính không những đối với tương lai dân tộc mà với cả lương tri nhân loại! Khi một trẻ thơ bị đầu độc bởi sự căm thù thì em đó lớn lên sẽ mãi mãi sống trong thù hận. Sự căm thù sẽ biến em như loài thú hoang nhưng phải sống giữa xã hội loài người!
Nhìn tội ác man rợ đang phát triển trong xã hội hiện tại mà lúc cộng sản chưa cướp được chính quyền gần như chẳng bao giờ nghe thấy! Đấy là nguyên nhân truyền thống Nhân hòa trong xã hội đã bật gốc!
Điều đó vẫn đang còn xảy ra, là cách chế độ đối xử với đồng bào miền Nam từ sau ngày 30 tháng Tư!
Trí não của bà từng là “Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam bên cạnh liên minh châu Âu (EU) tại Bỉ” có nhiệm vụ đi giải độc cho chế độ, vừa phát biểu: Lẽ nào nước Mỹ không còn ai ngoài Bob Kerrey?đã cho thấy cốt lõi của vấn đề. Một người có nhiệm vụ giải độc mà lòng dạ vẫn đầy thù hận, dù chính bản thân bà không phải là nạn nhân trực tiếp, đã cho thấy giữa Nói và Làm của người cộng sản hoàn toàn trái ngược nhau!

Thử so sánh thực tế đời sống của bà với nhà văn Nguyên Ngọc để thấy rõ hơn.

Về kinh nghiệm chiến trường là căm thù và máu lửa thì bà Tôn Nữ Thị Ninh là con số zero tròn trĩnh so với ông Nguyên Ngọc, một “cây xà nu Tây nguyên”! Bà đặt câu hỏi: “Lẽ nào nước Mỹ không còn ai ngoài Bob Kerrey?” là mạ lỵ dân tộc Hoa Kỳ, trong khi đó ông Nguyên Ngọc lại ca ngợi sự ăn năn, là hành động nhân bản.

Một bên là thành phần trí thức được chế độ miền Nam cho đi du học, một bên là từ miền Bắc quay trở lại miền Nam, đổ máu xương trực tiếp trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn!
Thế nhưng, người tốt nghiệp từ phương Tây vẫn giữ sự căm thù mà chính đương sự không mảy may va chạm. 

Còn người trực tiếp với máu lửa lại thấu hiểu được tâm trạng bị dằn vặt đau đớn mang tên “Bob Kerrey”. Từ hiện tượng “Bob Kerrey” đó, ông Nguyên Ngọc đã thức tỉnh về việc chính ông cũng “nấp” trong dân, biến họ thành những tấm bia thịt, để sau đó tuyên truyền.

Mà chỉ thuần túy tuyên truyền chứ chế độ không hề tỏ ra hối tiếc, không hề biết xin lỗi!

Điều khác nhau căn bản là người ‘vô can’ thì vẫn căm thù, còn người trực tiếp máu xương lại ca ngợi tính nhân bản của “người có nợ máu”!

Dù gì thì trí thức salon cũng như trí thức nhập cuộc xã hội chủ nghĩa cũng đã hoàn thành sứ mạng. Là giết được chế độ Tự do Dân chủ còn non trẻ của miền Nam! Công trạng đó tưởng họ phải hãnh diện suốt đời nhưng mấy ai ngờ lại có lúc phải tự vấn lương tâm?

Nhân danh tranh đấu cho Tự do, Dân chủ để giết chết Dân chủ Tự do! Nhân danh tranh đấu giải phóng cho nông dân, công nhân, để toa rập với tư bản bóc lột một cách trắng trợn và tàn tệ! Nhân danh “rừng vàng” phải bảo vệ để bây giờ bán rẻ mạt cho kẻ thù và thảm họa khôn lường không tránh khỏi. Nhân danh “biển bạc” thì hàng trăm ngàn tấn cá chết vì bị ô nhiễm môi trường mà 2 tháng qua vẫn chưa dám công bố nguyên nhân. Ngư dân bị tàu “lạ” cướp, bắn, giết giữa ngư trường mà nhà nước không hề dùng vũ lực bảo vệ, trái lại chỉ dùng nó như là điểm mấu chốt để chứng minh cột mốc chủ quyền!
Là, cũng dùng cái chết của người dân để tuyên truyền như trong thời nội chiến!
Đã thế khi người dân xuống đường bày tỏ chính kiến thì bị vu vạ, bị trấn áp tàn nhẫn với đủ thứ luận điệu bẩn thỉu, đê tiện!

Lòng dạ của một cấp lãnh đạo từng là “Đại sứ toàn quyền” về ngoại giao mà không hề có một tiếng nói nào về thực trạng bi đát đang xảy ra, lại đi phản đối về một chức vụ, chỉ một chức vụ mà thôi, của một đại học danh tiếng Fulbright vừa mở với mục đích sẽ mang lại kiến thức thực sự cho thế hệ tương lai Việt Nam, đã phản ánh bộ mặt thật của chế độ.
Dùng “bia thịt” của đồng bào để đạt được chiến thắng quân sự thì chiến thắng đó chỉ nhất thời. Vì thế, người của phe chiến thắng đã bắt đầu tự đặt câu hỏi về việc phung phí máu xương vô bổ đó, đã cho biết chiến thắng sau cùng phải thuộc về Lương Tri!

Ông Muhammad Ali, một tay boxing Hoa Kỳ lừng danh, mới qua đời hôm qua, báo chí khắp nơi đang nói về ông. Họ không nói nhiều về chiến thắng bằng sức mạnh và kỹ thuật nhưng ông được nhắc đến với sự kính trọng (Greatest) vì đời sống ông đặt trên thương yêu. Ông đã sống và đã để lại nhiều câu nói nổi tiếng, trong đó có câu: “I wish people would love everybody else the way they love me. It would be a better world”! 

Nghĩa là: Tôi mong ước mọi người yêu thương nhau như họ yêu thương tôi. Thế giới này sẽ tốt hơn!

Vâng, hận thù và bạo lực phải được thay thế bằng ăn năn thống hối và tha thứ. Chỉ có thương yêu mới tồn tại. Nhưng tiếc thay bà Tôn Nữ Thị Ninh vẫn cưu mang thù hận! Bà đã từng lý luận về những đòi hỏi chế độ mà bà đang phục vụ phải tôn trọng Nhân quyền với tuyên bố thẳng thừng: “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi”.
Thử hỏi bà là ai, đảng của bà là ai mà dám coi người dân như “… con, cháu hỗn láo…” và trừng trị theo cách riêng của đảng bà? Một người như vậy không phải là trí thức thiểu năng thì gọi là gì?
Câu kết của bài Về trường hợp Bob Kerrey “…Hóa ra tự chúng tôi cũng còn một câu hỏi…” không phải chỉ của riêng nhà văn Nguyên Ngọc mà phải là của tất cả mọi người đã vấy máu vô tội của nhân dân!
Đấy mới là Trí Việt chứ không phải giấc mơ thành lập Đại học Trí Việt của một người còn cưu mang hận thù!
H.P.B.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 05:35

Cánh đào Tôn Nữ trên dòng thế cuộc

Trần Quí Cao
Dòng thế cuộc hơn nửa thế kỷ nay cho thấy mỗi lần nước Việt Nam có cơ hội hòa binh, ổn định và phát triển về hướng văn minh giàu mạnh là xuất hiện những cản trở. Những cản trở ấy, suy xét kỹ, lại có cùng điểm xuất phát: quốc gia ngàn năm không thôi dã tâm chiếm nước Việt!

Sau chiến tranh Pháp Việt, năm 1954, nước Việt bị chia đôi bởi hiệp định Genève, tạm hình thành hai nước theo hai thể chế khác nhau. Miền Nam theo thể chế dân chủ tự do kiểu các nước Hoa Kỳ và Tây Âu, miền Bắc theo thể chế chuyên chính cộng sản chủ nghĩa theo kiểu các nước Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc và Đông Âu. Thời đó chính thể cộng sản chưa bộc lộ các điểm yếu chết người của nó như những năm 1989-1990 lúc nó bị Liên Xô và các nước Đông Âu vứt bỏ.

Việt Nam nằm đúng trong thời cơ có dịp thử nghiệm hai kiểu thể chế khác nhau, và tận dụng thời cơ được ủng hộ bởi hai khối Tự do (ủng hộ Miền Nam) và Cộng sản (ủng hộ Miền Bắc) để phát triển đất nước và dân tộc trong hòa bình! Viễn cảnh Tổ quốc hùng mạnh hiện rõ trước mắt thì ai đã xúi giục và đổ vũ khí cho Miền Bắc động viên trai tráng kéo binh vào Miền Nam? “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” phá tan nát gian san. Kẻ châm dầu vào cuộc chiến lợi dụng lúc hai nửa nước Việt đánh nhau, tiến quân chiếm một số đảo của Việt Nam, với sự đồng ý của một nửa nước Miền Bắc!

Hòa bình lập lại, đất nước càng điêu tàn bởi các chính sách sai lầm gây thù trong, giặc ngoài. Mười một năm sau đó, chính sách Đổi Mới, dù chưa triệt để, cũng nâng cao được nội lực Tổ quốc. Thời cơ đổi mới triệt để hơn những năm 1989-1990 để đưa đất nước vào thế giới Tự do đã bị đánh mất bởi Hội nghị Thành Đô!

Cuối thế kỷ trước, Việt Nam có cơ hội vào WTO. Ai cũng biết Trung Quốc đã ngăn chặn Việt Nam lấy thời cơ lúc đó, và Việt Nam chỉ gia nhập WTO năm 2007, sau Trung Quốc và lỡ thời cơ phát triển!

Bang giao Việt Nam - Hoa Kỳ luôn là cái gai trong con mắt Trung Quốc. Trung Quốc luôn can thiệp vào công việc ngoại giao của Việt Nam một cách không cần giấu diếm. Trước khi một lãnh tụ Việt Nam (cộng sản) công du Hoa Kỳ, thế nào vị ấy cũng phải lãnh chỉ dụ Thiên triều (Trung Cộng). Hoặc sang chầu mẫu quốc, hoặc thiên sứ bay sang.

Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama gần đây cũng vậy. Cuối năm ngoái, trước chuyến đi được đồn đoán của ông Obama, ông Tập Cận Bình bay sang truyền chiếu chỉ và phủ dụ cả tứ trụ. Từ đó đến tháng 5 năm nay là một loạt các nhân vật cao cấp Trung Quốc sang Việt Nam trong khi các hành động chiếm biển đảo của Việt Nam vẫn được Trung Quốc dồn dập đẩy mạnh.

Ông Obama đến Việt Nam nửa sau tháng 5/2016, người ra đón ông tại chân cầu thang máy bay là Thứ trưởng Ngoại giao! Nhưng việc dân chúng nô nức như trẩy hội chào đón vị Tổng thống Hoa Kỳ mới thực là ngoài tưởng tượng của chính quyền Hà Nội. Ông Obama tuyên bố gỡ bỏ hoàn toàn việc cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Và sau đó lễ ra mắt Đại học Fulbright Việt Nam (FUV) được tổ chức trọng thể tại TP.HCM.

Đại học Fulbright Việt Nam (FUV) là một dự án dài hơi trong lãnh vực giáo dục, hứa hẹn đem tới Việt Nam môi trường giáo dục tiến bộ và khai phóng của Hoa Kỳ. Việc này mở ra cơ hội để Việt Nam đưa dần xã hội của mình rộng mở hơn, dân chủ hơn, gần gũi hơn với các giá trị văn minh thời đại.

Trong khi dân chúng Việt Nam trông chờ sự thành công của dự án, thì các thế lực thù ghét bang giao Việt - Mỹ đánh hơi thấy dự án này cần được đánh phá. Trong khi dự án đề cử ông Kerrey, một nhân vật có rất nhiều uy tín tại Mỹ, có kinh nghiệm lãnh đạo nền giáo dục khai phóng, đã tâm huyết góp phần lớn dựng nên dự án này, nghĩa là người có nhiều khả năng đưa dựa án lớn mạnh và thành công, vào vị trí Chủ tịch Hội đồng Tín thác, thì các hận thù thời chiến tranh được lôi ra để ngăn cản sự bổ nhiệm!

Ông Đinh La Thăng, Bí thư Thành ủy TP.HCM, tuyên bố trên báo Tuổi trẻ ủng hộ ông Kerrey ở vị trí này vì rất có ích lợi cho đất nước. Bài báo Tuổi trẻ bị gỡ xuống. Và bài viết tiếp theo của bà Tôn Nữ Thị Ninh bài xích ông Kerrey một cách hằn học hơn, lại được đăng lên!

Nhân vật nào có đủ quyền lực gỡ bài của ông Đinh La Thăng, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy TP.HCM? Thế lực nào đủ mạnh để buộc nhân vật đó làm điều này?
Không biết ý đồ bên trong của bà Tôn Nữ Thị Ninh là gì, nhưng các bài viết, các tuyên bố của bà rất thuận chiều với ý muốn của thế lực đó.

Trước năm 1975, bà Năm Chơn, vợ ông Trần Bạch Đằng, bị bắt giam. Bà viết hai câu thơ nhắn chồng:

Giữa ngàn thác lũ nghiêng trời đất
Mà cánh đào kia vẫn ngược dòng!

Cánh đào Tôn Nữ Thị Ninh lại rất thuận dòng với những thế lực luôn cản trở nước Việt Nam bước chân về hướng văn minh và giàu mạnh. Xin bà Ninh cân nhắc thử xem có đồng ý chút nào với nhận xét của tôi về thế lực đó không?

T.Q.C.
Tác giả gửi BVN.


__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

No comments:

Post a Comment

Popular Posts

My Blog List