Ba giải pháp của Việt Nam ở
Biển Đông
- 8
tháng 3 2016
Các hoạt động cải tạo đảo của Trung Quốc ở Biển Đông gần đây cho
thấy tham vọng của Bắc Kinh trong việc độc chiếm vùng biển này. Chiến lược
chiếm hữu dần dần Biển Đông này đang gây quan ngại nghiêm trọng không chỉ đối
với các nước trong khu vực.
Chúng tôi nói chuyện với ông Jean-Vincent Brisset, chuyên gia từ
Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp:
Ông
nghĩ sao về việc Trung quốc đang cố gắng cải tạo các bãi đá chìm thành đảo nhân
tạo và bồi đắp các đảo nhỏ thành lớn hơn?
Ông Brisset: Luật Biển không thừa nhận những gì được xây dựng trên những thực
thể không được coi là hòn đảo. Vì vậy, trên quan điểm về chủ quyền, thì xây dựng
trên những hòn đảo này cũng không làm tăng thêm cơ sở cho các đòi hỏi về chủ
quyền, theo quy định quốc tế.
Tuy nhiên, trên thực tế thì việc xây cất thêm đó cho phép họ tăng
khả năng quân sự, tăng quyền lợi kinh tế (trong các vùng biển xung quanh).
Tôi nghĩ rằng Luật Biển khá rõ ràng: sở hữu một thực thể không
phải là một hòn đảo theo định nghĩa của Luật Biển, tức là không có cư dân, và
không có tài nguyên riêng (đủ cho cư dân trên đảo đó sống được), thì không có
giá trị đòi chủ quyền vùng lãnh hải bao quanh. Vì vậy, việc tạo ra chủ quyền
lãnh hải xung quanh các "hòn đảo" này, bất kể diện tích là to hay
nhỏ, là không đúng với những gì được quốc tế chấp nhận.
Dưới
góc độ quân sự thì việc chiếm hữu các vị trí này có giá trị thế nào?
Ông Brisset: Về mặt quân sự, các "hòn đảo" chỉ có thể được coi như
một cứ điểm nhỏ không mấy quan trọng. Lợi ích của nó chủ yếu là về kinh tế, đặc
biệt cho ngư dân. Nhưng nếu diện tích vượt quá một ngưỡng nhất định, máy bay
chiến đấu có thể hạ cánh được, có thể triển khai trên đó vũ khí hạng nặng, có
cảng biển lớn đến mức tàu chiến có thể ghé vào lấy đồ tiếp tế... thì lại là
chuyện khác.
Nguy cơ lúc đó sẽ là từ sở hữu về kinh tế, rồi sẽ mở rộng dần sang
sở hữu lãnh thổ và chủ quyền. Và hành động đó tạo căng thẳng với các nước trong
khu vực.
Các nước khác cũng đã mở rộng đảo nhỏ. Việt Nam, Đài Loan,
Malaysia, Philippines đã mở rộng một số đảo, nhưng ở một quy mô khác, và họ
không đòi chủ quyền biển xung quanh các đảo đó.
Trung
Quốc cũng đang phải trả giá cho hành động của mình. Chiếm thêm được biển, giành
được ưu thế về quân sự, nhưng cũng mất đi uy tín, trở nên không đáng tin cậy
đối với các nước trong khu vực. Ông có nghĩ là cái giá đó là đắt hay không ?
Ông
Brisset: Tôi nghĩ rằng hệ thống
mà Trung Quốc đang dựa vào là tìm cách giành chiến thắng một cách âm thầm lặng
lẽ trong các cuộc đàm phán, đồng thời dựa cả vào cán cân về quyền lực trong các
mối quan hệ song phương. Trung Quốc đã rất thành công khi dùng vũ lực hồi năm
1974 trên các quần đảo Hoàng Sa, và bây giờ vẫn chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa,
trong lúc thế giới đều không để ý đến [những gì đã xảy ra ở đó].
Trung Quốc tăng hiện diện trên những hòn đảo, và sẽ dần áp đặt sự
có mặt bằng cách xây dựng thêm và tăng chủ quyền thực tế. Tại thời điểm này,
cách làm của Trung Quốc đang có kết quả. Trung Quốc đã tạo ra một cơ cấu hành
chính hoàn toàn không được công nhận quốc tế, nhưng cơ cấu hành chính này vẫn
tồn tại, về hành chính, về quân sự, về chính trị, và được gọi là Tam Sa.
Như
vậy các nước nhỏ như Việt Nam và Philippines có thể làm gì? Quốc tế hoá sự việc
phải chăng là cách thức duy nhất khả dĩ?
Ông Brisset: Philippines đã chọn cách quốc tế hóa, kiện ra Tòa án quốc tế. Tôi
nghĩ rằng đây là một cách tiếp cận khá thú vị. Bởi vì nếu chúng ta phân tích một
cách đơn giản, thì Philippines có quyền hợp pháp để làm việc đó.
Bây giờ, vấn đề là đã có quyền hợp pháp rồi, nhưng ngoài ra còn
phải có thực lực nữa. Đó là vấn đề khó. Một mặt, mặc dù có một số kiến nghị là nên
đi theo cách này, tức kiện ra toà quốc tế, Việt Nam vẫn không làm theo, không dùng tới công cụ pháp lý hợp
pháp để giải quyết tranh chấp.
Điều này thật đáng tiếc, bởi vì Việt Nam, trên bình diện pháp
luật và trên bình diện chiếm hữu thực tế một số đảo Trường Sa, có những lập
luận vững chắc hơn, hơn cả lập luận của Philippines, về chủ quyền của mình do người
Pháp chuyển giao lại. Bởi vì trong các tài liệu chính thức được công nhận, thì
quốc gia có chủ quyền các hòn đảo này vào thời điểm năm 1933, là Pháp.
Sau khi Pháp chuyển giao chủ quyền, đặc biệt là sau Hiệp định
Geneva năm 1954, cho các nước Đông Dương, thì cho đến nay, mọi việc kém rõ ràng
hơn, nhưng chủ quyền được chuyển giao đó vẫn có giá trị tồn tại. Các tranh chấp
về mặt pháp lý có thể dùng pháp luật để giải quyết. Nhưng điều không may là
chính quyền Việt Nam đã không chọn cách đưa ra tòa án quốc tế, là thực thể có
nhiều tự do phát biểu hơn đối với Trung Quốc.
Ông
có cho là nếu Việt Nam và Philippines cùng phối hợp trên mặt trận pháp lý thì
sẽ có hiệu quả hơn không?
Ông Brisset: Việt Nam và Philippines kiện chung thì không nên. Vì nguyên nhân
của hai nước là không như nhau, bởi vì các đảo mà mỗi nước tranh chấp không giống
nhau. Vì vậy, Việt Nam và Philippines nên làm một cái gì đó, nhưng độc lập với
nhau.
Philippines đã kiện, theo ý kiến của tôi, Việt Nam cũng nên thực
hiện một cách tiếp cận tương tự. Tòa án sau đó có thể sẽ ít nhiều gắn hai vụ
kiện với nhau. Vấn đề hiện nay là Việt Nam, theo tôi biết, vẫn không chọn cách
tiếp cận tự nguyện và chủ động này để đạt được một mục tiêu cao hơn.
Nhưng
nếu Trung Quốc tiếp tục từ chối không tham gia phiên toà tại La Haye?
Ông
Brisset: Trung Quốc không tham gia vụ kiện, bởi vì hiện
nay chỉ có một đối thủ duy nhất tại tòa án quốc tế. Nếu có hai đối thủ, 3, 4
nước cùng kiện, Trung quốc sẽ ngày càng phải đối mặt với thực tế, bất chấp ý
chí riêng của mình.
Nếu một sự kết hợp giữa Việt Nam và Philippines, sau đó có thêm Malaysia,
Đài Loan, thì quốc tế sẽ quan tâm hơn nhiều tới khu vực này, đặc biệt là quan
tâm tới những đối với vận tải quốc tế. Chúng ta không quên rằng 40% của vận tải
biển của toàn thế giới đi qua khu vực này.
Sự
hiện hiện gần đây của Mỹ trong khu vực có ảnh hưởng gì tới tình hình?
Ông Brisset: Sự hiện diện của Mỹ là đi theo chính sách của Mỹ, sự hiện diện đó
không trái với luật pháp quốc tế, không trái với luật pháp quốc tế trong tất cả
các vùng biển của thế giới. Người Mỹ muốn đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông.
Người Mỹ quan niệm sự tự do hàng hải cũng giống như quyền tự do hàng không ở
một số khu vực mà Bắc Kinh đơn phương tuyên bố cách đây không lâu tại Biển
Đông.
Trung Quốc coi đó là một sự khiêu khích. Nhưng Hoa Kỳ đã vận dụng
đúng luật pháp quốc tế. Trung Quốc có thể dám tấn công một tàu Việt Nam hay tàu
Philippines, nhưng không bao giờ dám tấn công một tàu của Mỹ.
Theo
ông thì các nước như Việt Nam và Philippines không có nhiều lựa chọn. Lúc này
hai nước có thể dựa vào sự hiện diện của Mỹ, dựa vào cơ sở pháp lý, ngoài ra còn
có những chỗ dựa nào khác?
Ông
Brisset: Có ba cơ sở để đấu tranh với Trung Quốc. Về
mặt quân sự, là dựa vào hợp tác vùng hay hợp tác với Mỹ. Thứ hai là cơ sở pháp
lý, mà tới nay mới chỉ có duy nhất Philippines chọn.
Và cuối cùng là truyền thông.
Nhưng, cả Philippines, Malaysia hay Việt Nam đều ít dùng tới sức
mạnh của truyền thông. Đó là một điều đáng ngạc nhiên, bởi vì tôi nghĩ rằng khá
dễ dàng khi tăng cường truyền thông về vấn đề này. Tôi thấy hiện nay, Đài Loan đã
tham gia một phần, với quan điểm còn tương đối trung dung. Nhưng Đài Loan
truyền thông rất nhiều (về vấn đề này), và làm truyền thông thực ra là cách dễ
dàng nhất. Tôi ngạc nhiên là cả Philippines và đặc biệt là Việt Nam đã không
quan tâm đến vũ khí truyền thông.
Ông
có ngạc nhiên khi thấy nhóm nước Asean phản ứng yếu ớt đến thế không?
Thế nhưng rõ ràng Trung Quốc đang gián tiếp cản trở nỗ lực đạt Quy
tắc ứng xử bằng cách, có thể nói trắng ra, là bỏ tiền ra mua một số quốc gia.
Điều này đặc biệt rõ khi ghế chủ tịch luân phiên của Asean được trao cho
Campuchia. Chính phủ Campuchia đã ngăn công bố Asean ra tuyên bố chung về Biển
Đông.
Theo
như lời ông thì một nước như Việt Nam không có nhiều giải pháp, và phạm vi hành
động khá là hạn hẹp?
Ông
Brisset: Phạm vi phản ứng của
Việt Nam là rất hạn chế. Chừng nào Việt Nam không quốc tế hóa vấn đề thông qua
tòa án, thông qua truyền thông, chừng nào Việt Nam vẫn hy vọng đàm phán song
phương với Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ thua.
Ông
Jean-Vincent Brisset là cựu chuẩn tướng quân đội Pháp. Ông nghiên cứu Trung
Quốc và châu Á trong một thời gian dài. Sau khi rời quân đội năm 2001, ông
chuyên sâu về các chủ đề quan hệ quốc tế và quân sự. Hiện ông là Giám đốc
nghiên cứu của Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment