Kính́ chuyển quývị xin tiếp phổ biến,
ht
----- Forwarded Message -----
From: "Hoang Nguyen hpnguyen16 wrote [VN-TD]" <>
To:
Sent: Saturday, March 19, 2016 8:38 AM
Subject: [VN-TD] THÁNG TƯ ĐEN: Khi lãnh đạo tôn giáo tôn thờ tội ác , Trần Trung Đạo
Khi lãnh đạo tôn giáo tôn thờ tội ác
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Nhìn bức tượng Hồ Chí Minh ngồi chễm chệ
giữa chánh điện, xem buổi lễ mừng sinh nhật của họ Hồ cùng lúc với Đức Thế Tôn
thị hiện, đọc những lời nịnh bợ đảng CS một cách trơ trẻn của các lãnh đạo
“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”, một người Phật tử có chút nhận thức nào cũng
không khỏi lấy làm hổ thẹn trước tình trạng tha hóa trầm trọng của hàng ngũ
lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”.
Đọc lại lịch sử đạo Phật sau khi Đức Bổn Sư
nhập diệt để lần nữa nhận ra "Phật Giáo Việt Nam" đang suy tàn tương
tự.
Vườn Lộc Uyển (Sarnath) là một trong những
Phật tích thiêng liêng nhất của đạo Phật vì đó là nơi Đức Bổn Sư đã giảng những
bài pháp đầu tiên dẫn tới thời cực thịnh của Phật Giáo Ấn Độ cho đến thế kỷ thứ
bảy, nhưng sau đó Phật Giáo Ấn Độ suy tàn. Ngày nay, di tích Vườn Lộc Uyển chỉ
là những đống gạch vụn trong ý nghĩa tinh thần lẫn vật chất. Hàng loạt lý do
dẫn tới sự suy tàn của Phật Giáo trong đó có vai trò của đạo Bà La Môn, sự tàn
sát của đạo quân Hồi Giáo nhưng một trong những lý do mà chính Đức Đạt Lai Lạt
Ma và nhiều học giả Phật Giáo đồng ý đó là sự thoái hóa và biến chất của hàng
tăng sĩ Phật Giáo thời đó.
Trong tiểu luận Vì sao Phật Giáo suy tàn
tại Ấn Độ của nhà nghiên cứu Phật Giáo D.C. Ahir (1928-2012) đã viết: “Chúng ta phải thừa nhận rằng chính những tín đồ Phật Giáo lãnh
phần trách nhiệm lớn cho số phận đáng buồn của tôn giáo của họ... Ðức Phật là
một vị thầy tôn giáo đầu tiên ở Ấn Ðộ, hay nói đúng hơn là toàn thế giới, cổ vũ
những đệ tử của mình đi và đi khắp nơi vì hạnh phúc và lợi ích của nhiều
người... Nhưng bất hạnh thay, các tăng sĩ về sau đã không giữ những tiêu chuẩn
dành cho họ. Khi các tu viện trở nên giàu có, thì hoạt động chính của họ được
coi là đào sâu việc nghiên cứu từ chương thay vì truyền bá Giáo Pháp, tăng sĩ
đánh mất sự giao hảo gần gũi với quần chúng, và tương quan giữa tăng sĩ và cư
sĩ bị thụt lùi. Các vị Tỳ Kheo trở nên xao lãng và thụ động đối với những mục
đích thực tiễn. Ðiều nầy làm cho Phật Giáo suy yếu.”
Đức Đại Lạt Ma, qua tác phẩm Câu chuyện Tây Tạng:
Những cuộc trò chuyện với Đức Dalai Lama (The Story of Tibet: Conversations
with the Dalai Lama) của Thomas C. Laird, cũng đã giải thích một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến sự suy tàn của Phật Giáo là từ các lý do nội
tại Phật Giáo: “Tôi
nghĩ rằng trong trường hợp Tây Tạng cũng thế, y hệt như trường hợp Ấn Độ, có xu
hướng xem xét những nguyên nhân bên ngoài. Khuynh hướng xem xét trước tiên
những tác động ngoại lai đã mọc rễ sâu trong đầu con người và khó loại bỏ.
Chúng ta chẳng thể làm được gì nhiều về những người khác, về những tác động
ngoại lai. Nhưng chính chúng ta, nếu chúng ta không tu hành tốt, không giữ gìn
giới luật, thì tôn giáo chúng ta trở thành giả dối. Đây là sự thật. Vậy đây
đúng là lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ và Tây Tạng”.
Trong tam bảo Phật, Pháp, Tăng, Tăng là những
vị mang giáo pháp của Đức Phật đến với con người và do đó Tăng sĩ cũng là những
vị trực tiếp có ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đối với tầng lớp cư sĩ
Phật Tử. Trong suốt bốn mươi lăm năm gieo rắc hạt giống từ bi, Đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni dành chuyến hoằng pháp cuối cùng từ thành Vương Xá đến xứ Kusinara để
nhắc nhở ba điểm bất di bất dịch của một tu sĩ Phật Giáo: Giới, Định, Huệ. Đi
tu để cầu giải thoát cho mình và cứu độ cho đời. Người Phật tử kính trọng tăng
không phải chỉ vì chiếc y các thầy đắp mà còn vì hạnh nguyện cao cả các thầy đã
chọn.
Từ khi được đảng CSVN thành lập ngày 7 tháng
11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ Hà Nội và được xếp vào một trong 37 thành viên của
Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” chỉ là một đoàn thể xã
hội giống như các đoàn thể khác trong mặt trận như Hội Người cao tuổi Việt Nam,
Hội Châm cứu Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam, Hội Làm vườn Việt Nam, Hội kế
hoạch hóa gia đình Việt Nam v.v... Một tôn giáo có lịch sử hai ngàn năm truyền
thừa và đã đóng góp một phần không nhỏ cho mảnh đất hình chữ S này còn tồn tại
trên bản đồ thế giới, được đặt vào vị trí ngang hàng với một hội làm vườn, cắt
cỏ nhưng không một lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” nào phàn nàn hay thắc
mắc.
"Huân chương Hồ Chí Minh"
Sự tuân phục, phụ thuộc của hàng ngũ lãnh đạo
“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” vào đảng CS trầm trọng đến mức nhiều văn kiện từ
một bài văn, bài báo bình thường cho đến đạo từ quan trọng nhân đại lễ Phật Đản
của Pháp Chủ tối cao cũng không quên dành một phần lớn để ca ngợi công ơn cao
dày của đảng CS. Đạo từ của Pháp Chủ
Thích Phổ Tuệ “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” công bố nhân mùa Phật Đản Phật Lịch
2556, tháng 5 năm 2012 là một bằng chứng.
Thông điệp Phật Đản lẽ ra là một dịp để nhắc
đến công ơn của Đức Phật đã thị hiện trên thế gian để cứu vớt chúng sinh bị đắm
chìm trong ô trược, soi rọi ánh sáng từ bi trí tuệ vào nhận thức con người đang
lạc loài trong tăm tối vô minh, khơi mạch suối tình thương chảy vào thung lũng hận
thù giết chóc. Nhưng không, Đạo từ của Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ, vỏn vẹn chỉ một
trang nhưng phân đoạn dài nhất được dành để ghi ơn Đảng Cộng Sản Việt Nam trao
tặng cho giáo hội “huân chương Hồ Chí Minh”, các huân chương và bằng khen khác:
“…Trong suốt 30 năm xây dựng và phát triển, Tăng Ni, Cư sĩ, Phật
tử các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu Phật sự trên
tất cả các lĩnh vực Đạo pháp và Dân tộc cũng như quan hệ đối ngoại Phật sự quốc
tế; được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cộng đồng xã hội đánh giá
cao vị thế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhân dịp này, Đảng và Nhà nước đã
quyết định trao tặng Huân Chương Hồ Chí Minh lần thứ hai cho Giáo hội, cùng một
số chư Tôn đức, Cư sỹ, Phật tử có nhiều thành tựu Phật sự ích đời lợi đạo đã
được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Huân chương Đại
đoàn kết Dân tộc, Bằng khen của Thủ Tướng Chính Phủ và Chính quyền các cấp. Đây
là minh chứng ghi nhận những đóng góp to lớn của giới Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử Giáo
hội Phật giáo Việt Nam đối với sự nghiệp Cách mạng của Đảng và của Dân tộc.”
Huân chương để làm gì?
Bằng khen để làm gì?
Là tu sĩ, có gì cao quý hơn vinh dự được mang
họ Thích, được đắp y truyền thừa của Phật, được nương tựa vào Chánh Pháp. Danh
lợi, quyền lực là một trong những giới cấm tối quan trọng của một bậc xuất gia.
Điều mỉa mai hơn, đạo từ nhằm đề cao danh lợi,
đánh bóng quyền lực của một đảng vô thần lại được công bố đúng trong ngày một
bậc thánh nhân ra đời chỉ để rồi 29 năm sau từ bỏ mọi quyền uy bậc nhất dành
cho ngài, rời cung vàng điện ngọc, cắt mái tóc Đông cung Thái tử trả lại vua
cha, khoác lên người một mảnh áo vàng và đi bằng đôi chân đất vào lòng thế gian
đau khổ. Hai ngàn năm trăm năm từ ngày đại nguyện đó, trên đất nước Việt Nam có
những kẻ tự nhận là con Phật, chọn ngày sinh của ngài để vinh danh, ca ngợi
tầng lớp cai trị đang chà đạp lên những quyền căn bản của con người mà đức Phật
đã dành 45 năm để hoằng dương giá trị. Một câu cũng đảng, hai câu cũng đảng,
không một dòng nào trong đạo từ nhắc đến ý nghĩa sự ra đời của Thái tử Tất Đạt
Đa và bảy bước đi trên bảy đóa sen màu nhiệm.
Sự suy thoái của Phật Giáo từ cuối thời nhà
Trần như cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Thiện Hoa viết trong Lịch sử Phật Giáo Việt
Nam không chỉ là một bằng chứng mà còn là bài học:
“Thế mà Ðạo Phật trong đời nhà Trần, chỉ thịnh phát trong khoảng
50 năm đầu, rồi dừng lại và thoái bộ mãi. Vì hai lý do làm cho Ðạo Phật không
thể tiến phát được là ở bên ngoài, sự cạnh tranh ráo riết, có nhiều khi là cả
một sự đàn áp của Khổng-Giáo; và ở bên trong, giáo lý Ðạo Phật dần dần bị xen
lẫn mê tín, dị đoan của những tà giáo, ngoại đạo mà các vua chúa trong đời nhà
Trần rất sùng mộ.”
Hôm nay, một lần nữa, các
lãnh đạo "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam" thỏa hiệp với giới cai trị và
biến đạo Phật thành một loại tà đạo mê tín dị đoan.
Tượng Hồ Chính Minh trên chánh điện Phật
Đặc tính tà đạo thể
hiện qua cách chư tăng giáo phẩm đắp đại y và lạy trước tượng Hồ Chí Minh, một
kẻ can tội diệt chủng qua cái chết của hàng ngàn người dân vô tội trong Cải
cách Ruộng đất vô cùng bất nhân ở miền Bắc, cho cái chết thảm thương của nhiều
ngàn dân Huế trong Tết Mậu Thân và cho sinh mạng của ba triệu người Việt trong
suốt hai mươi mốt năm chiến tranh cưỡng chiếm miền Nam bằng bạo lực.
Về mặt giới luật, lạy một người chết, dù là
ảnh, tượng, hay xác cũng phạm giới. Một tăng sĩ lạy cha mẹ ba lạy để đền đáp ơn
sinh thành dưỡng dục khi xin phép xuất gia. Sau khi được cha mẹ đồng ý và đã
làm lễ thí phát, tăng sĩ Phật Giáo không lạy người chết nữa dù người đó là ai. Những
giới luật căn bản như thế, các tăng sĩ Phật Giáo chắc chắn đã học qua và được
dạy phải sống đúng với giới luật. Các lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam dĩ nhiên biết
rõ nhưng miếng bả danh vọng, lòng tham lam quyền lực đã cuốn hút họ ngày càng
lún sâu vào con đường tha hóa trần tục.
Xây tượng lớn để làm gì?
Và mới đây, để phụ họa với phong trào xây
tượng các lãnh tụ CSVN, các lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” cũng cho xây
tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông hết sức tốn kém và hãnh diện là tượng đồng Phật
Hoàng lớn nhất Việt Nam.
Xây chùa
lớn, tượng đẹp để làm gì trong khi cả một dân tộc đang trầm luân trong độc tài,
nghèo nàn, lạc hậu?
Trong thời đại Lý Trần, thời đại vàng son của
Phật giáo Việt Nam, nhiều nhà sư đã tham gia trực tiếp vào việc trị nước chăn
dân và hầu hết vua chúa không những đều là Phật tử mà còn là tổ của các Thiền
tông lớn, nhưng không phải vì thế mà Phật giáo trở thành lực lượng thống trị xã
hội. Trái lại, các tôn giáo khác tại Việt Nam vẫn tồn tại và có ảnh hưởng quan
trọng trong mọi sinh hoạt văn hóa xã hội, thương yêu và gắn bó với nhau.
Các nhà vua thời Lý, thời Trần với quyền hạn
tuyệt đối, nhưng thay vì xây dựng những đền chùa nguy nga bằng mồ hôi nước mắt
của nhân dân, các ngài đã để lại cho chúng ta ngày ngay những tổ đình uy
nghiêm, tôn kính nhưng với một kiến trúc vô cùng khiêm nhượng. Tại sao? Đơn
giản bởi vì các ngài là những vị vua nhân từ, lãnh đạo một đất nước vừa nghèo
khó, vừa phải lo chống đỡ các triều đại Bắc phương không ngừng xâm lấn. Các ngài
đã biết đặt sự an lạc của dân tộc lên trên sự hưng thịnh riêng của tôn giáo
mình. Các lãnh đạo Phật Giáo ngày nay đã xa rời tinh thần bao dung, từ bi và
đơn giản của đức vua Trần Nhân Tông.
“Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” là gì?
Phương châm “Đạo pháp -
Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” của “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” không đại diện
cho truyền thống của một tôn giáo đã gắn liền với dòng sinh mệnh Việt Nam mà
chỉ nói lên sự sợ hãi, phụ thuộc, nô lệ vào đảng CS. Đảng CS và dân tộc Việt Nam
không đồng hành về tương lai mà cũng chưa hề đồng hành trong quá khứ.
Nhân dân Việt Nam muốn gì?
Nhân dân Việt Nam muốn có một cuộc sống an
bình thịnh vượng trong một cơ chế chính trị dân chủ pháp trị và phát triển toàn
diện phù hợp với thời đại văn minh dân chủ. Chính quyền trong cơ chế chính trị
dân chủ có nhiệm vụ ngăn chận mọi hình thái độc quyền, bảo đảm công bằng xã hội
và bình đẳng cơ hội cho mọi thành phần dân tộc và mọi miền đất nước, tạo dựng
môi trường, điều kiện và cơ hội đồng đều để mỗi người phát huy khả năng và sở
thích đặc thù, đóng góp vào việc xây dựng nền văn minh mới cho toàn dân và cho
nhân loại.
Đảng CS muốn gì?
Sau hơn 80 năm qua
nhiều lần thay màu đổi dạng nhưng Đảng vẫn duy trì một mục đích áp đặt quyền
cai trị tuyệt đối lên toàn dân tộc Việt Nam, sống giàu sang phú quý trên mồ hôi
nước mắt và xương máu nhân dân, kiểm soát mọi sinh hoạt vật chất cũng như tinh
thần của đời sống con người, áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt một cách không
nương tay các hành vi chống đối, mọi tiếng nói bất đồng phát sinh từ trong lòng
dân tộc. Hãy xem những hình ảnh nội thất của người đốn củi Nông Đức Mạnh và của
binh nhì Lê Khả Phiêu để thấy sự xa cách giữa đời sống của hai Tổng bí thư CS và
của tuyệt đại đa số còn lại của dân tộc Việt Nam. Chúng không có một chút xót
thương cảm thông, chia sẻ nào dành cho đại đa số người dân đang chịu đựng trong
nghèo nàn thiếu thốn. A dua theo chúng, cúi đầu tuân phục chúng là tòng phạm
bán nước.
Phân tích để thấy, dân tộc Việt Nam và chủ
nghĩa Cộng Sản chẳng những không chia sẻ một mục đích cuối cùng chung mà còn
mâu thuẫn đối kháng ngay từ trong căn bản. Do đó, về lý luận cũng như về thực
tế, không bao giờ có chuyện “đảng song hành cùng dân tộc” như các lãnh đạo
“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” lập đi lập lại khẩu hiệu “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa
xã hội” tuyên truyền mị dân của đảng CS.
Lịch sử đạo Phật đã cho
thấy, trong thời đại nào và ở đâu, các hàng tăng sĩ lãnh đạo Phật Giáo thỏa
hiệp với tầng lớp thống trị, bị lôi cuốn vào vòng lợi danh và quyền lực, bàng
quan trước nỗi khổ đau bất hạnh của con người, ở đó Phật Giáo không còn là đại
diện cho đạo từ bi của Đức Phật. Kẻ sát nhân chỉ giết một người hay vài người,
nhưng một khi các lãnh đạo tôn giáo, trong trường hợp này là “Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam”, bị tha hóa, toa rập với đảng CS vô thần để hủy diệt đời sống
tinh thần của nhiều triệu người, những lãnh đạo Phật Giáo đó có trọng tội đối với
dân tộc không khác gì lãnh đạo đảng CSVN.(NPH tô đậm)
danlambaovn.blogspot.com
KẺ THÙ DUY NHẤT CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM LÀ "CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH" VÀ LŨ LÃNH ĐẠO ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - CỘNG SẢN VIỆT NAM.
KẺ THÙ DUY NHẤT CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM LÀ "CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH" VÀ LŨ LÃNH ĐẠO ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - CỘNG SẢN VIỆT NAM.
NPH
__._,_.___
No comments:
Post a Comment